tag:blogger.com,1999:blog-27913922193779157412024-02-18T20:18:20.658-08:00VƯƠNG TRÍ NHÀNthuykuehttp://www.blogger.com/profile/11377510706382381616noreply@blogger.comBlogger155125tag:blogger.com,1999:blog-2791392219377915741.post-50087182591446390992009-03-07T23:06:00.000-08:002009-03-07T23:07:09.632-08:00Giả dối, vì thờ ơ với sự thựcTết đến, mọi người đi lễ, chúng tôi tình cờ nhận được một cuốn sách, mới mở ra đã thấy nói chuyện chùa chiền. Trong cuốn phiếm luận Nhân Nào Quả Ấy, nhà văn Vương Trí Nhàn ở trong nước nói tới những “chùa giả” mà quan chức các địa phương dựng lên chỉ cốt câu du khách kiếm tiền. Ðồng bào về thăm quê trong dịp Tết cũng hay kể lại tai nạn đó, họ cảm thấy rõ ràng mình bị lừa gạt; mất tiền đã đành, mà tấm lòng yêu mến quê hương và kính ngưỡng tổ tiên cũng có thể bị tổn thương!<br />Nhiều cán bộ xã ấp thiếu hiểu biết đã xóa bỏ cả những di tích thật, vì thấy nó cũ kỹ, xấu xí, rồi dựng lên những ngôi chùa mới, tô son điểm phấn, xanh xanh đỏ đỏ, không còn ý nghĩa lịch sử nào cả. Vương Trí Nhàn kể, “Hiện đang có phong trào dân các địa phương thi nhau xin công nhận di tích, đưa chùa chiền, miếu mạo, nhà thờ... nơi mình vào danh sách được nhà nước xếp hạng (cổ tích).” Một nơi rất nhiều “chùa giả” là ở Chùa Hương, một di tích tôn giáo, lịch sử và thắng cảnh ở ngoài Bắc. Có chùa giả, hang động giả, di tích giả. Cán bộ đã lợi dụng tiếng tăm của ngôi chùa có từ ngàn năm trước để trục lợi, dân chúng sống nhờ tiền du khách chi ra cũng vui vẻ. Ngay cả những món quà lưu niệm bán cho du khách cũng là đồ giả, như chính tác giả từng là nạn nhân khi mua một giỏ phong lan, đi một quãng thì các mối dây buộc tung ra hết. “Còn nói chi đến nước giải khát giả, kẹo bánh giả, rồi lá số giả, tờ sớ giả vẫn bán giá cắt cổ!”<br />Một điều mà Vương Trí Nhàn không nêu lên trong bài đó, là ở các nơi đông du khách người ta huy động cả đội ngũ thiếu nhi tham gia công tác làm đồ giả, bán đồ giả giúp cha mẹ. Ðến địa điểm du lịch nào cũng thấy cả đoàn lũ trẻ em chạy theo kéo áo, bám lấy khách người Việt và ngoại quốc năn nỉ bán quà bánh, vật kỷ niệm, chưa kể là xin tiền. Người ta vô tình hy sinh tấm lòng trong trắng, non nớt của cả một thế hệ con em, chỉ vì mối lợi trước mắt. Một người cháu tôi đem vợ con về nước lần đầu tiên, đi thăm Vịnh Hạ Long. Cháu kể chuyện đã thuê một chiếc thuyền đắt tiền đi chơi biển, thuyền có cả phòng ngủ cho cả gia đình. Nửa đêm về sáng có lúc cháu tỉnh dậy, nhìn thấy cái cửa sổ trên vách thuyền mở ra, một chú bé đang thò đầu vào trong, nhớn nhác tìm kiếm. Khi thấy có người thức giấc, cậu bé ăn trộm nhìn gia chủ, nhoẻn miệng cười rất tươi, rồi từ từ tụt xuống, nhẩy tõm xuống biển, bơi đi. Chắc là cậu đi tìm một cái thuyền khác.<br />Ðiều làm người du khách kinh ngạc là thái độ thản nhiên, miệng cười tươi tỉnh trên khuôn mặt ngây thơ của chú bé. Cháu bé mặt mũi khôi ngô kháu khỉnh không có vẻ gì lúng túng sợ hãi khi hành động trộm cắp của mình bị bại lộ. Cháu cười như thể câu chuyện này cũng chỉ là một trò chơi, mình bị thua thì chơi trò khác. Trẻ em khắp thế giới chơi những trò đi trốn đi tìm, chơi bịt mắt bắt dê, chơi trò điện tử, vân vân, còn các em bé Việt Nam hồn nhiên chơi trò ăn trộm, trò bán hàng giả, trò đánh lừa du khách.<br />Những người có lòng với tương lai dân tộc đều phải lo lắng trước cảnh tượng đó. Phân tích hiện tượng dựng lên những di tích, chùa miếu giả mạo, ông Vương Trí Nhàn nhận thấy “Ngay từ đầu... yếu tố mập mờ nước đôi, nói một đằng, hiểu ngầm với nhau một nẻo, đã xuất hiện. Và cái sự đi đêm ấy mở đường cho nhiều hoạt động giả dối tiếp tục nẩy nở.”<br />Ðọc lại câu này, để chúng ta cùng suy nghĩ. “Cái sự đi đêm ấy mở đường cho nhiều hoạt động giả dối tiếp tục nẩy nở.”<br />Mọi người hiểu ngầm, đi đêm với nhau. Tất cả đồng lõa trong một trò chơi gian dối, đó là cuộc sống diễn ra ở nước ta suốt nửa thế kỷ, do chế độ cộng sản nuôi dưỡng. Ðến cửa hàng quốc doanh không có gì để mua, nhưng có thể gặp cô bán hàng ở một góc đường trao đổi kín đáo. Người mua than củi lậu đã giao tiền trước, được hẹn đứng đợi ở dưới gốc cây bàng, sẽ có người lái chiếc xe chạy qua, làm rớt túi than xuống mặt đường, cứ việc lượm lên đem về đi bán lẻ. Ðọc báo, nghe đài nói cái gì không, phải hiểu là có; và ngược lại. Trong trò chơi hối lộ, người bán quyền lực và mua đều nói những lời hoa mỹ, yêu nước thương nòi, phục vụ nhân dân, xây dựng Chủ Nghĩa Xã Hội, vân vân. Hô hào toàn dân đi bỏ phiếu thể hiện quyền dân chủ, nhưng ai cũng biết danh sách các đại biểu Quốc Hội đã được chọn sẵn rồi! Hoan hô tình hữu nghị Việt Trung, nhưng ai cũng biết nó sơi của mình đất, đai, rừng, biển, mình ngậm đắng nuốt cay mà vẫn phải ca tụng đồng chí anh em vĩ đại.<br />“Và cái sự đi đêm ấy mở đường cho nhiều hoạt động giả dối tiếp tục nẩy nở.”<br />Vương Trí Nhàn đã mô tả nguyên nhân gây nên cảnh tượng phong hóa suy đồi. Khi nói đến những đền chùa miếu mạo giả, ông lên án “...kẻ bất lương lợi dụng lòng hướng thiện chính đáng của mọi người để kiếm lời.” Câu này nghe giống như một câu của Dương Thu Hương, khi bà lên án đảng Cộng Sản Việt Nam đã khai thác một mỏ vàng ròng là tinh thần yêu nước của người Việt Nam. Hàng triệu thanh niên hy sinh mạng sống vì yêu nước, kết cục đảng bảo mục tiêu quan trọng hơn là xây dựng Chủ Nghĩa Xã Hội. Ðảng bèn đặt ra khẩu hiệu “Yêu nước là yêu Chủ Nghĩa Xã Hội!” Năm 1945 đảng Cộng Sản cướp chính quyền rồi tìm cách nắm độc quyền cai trị. Bao nhiêu người dân Việt đã hy sinh chịu cho đảng Cộng Sản nắm đầu chỉ vì muốn toàn dân đoàn kết chống thực dân Pháp. Nhưng ngay trong lúc còn phải đương đầu với thực dân xâm lược, đảng Cộng Sản đã thỏa hiệp với Pháp, rảnh tay tiêu diệt các đảng phái quốc gia để củng cố quyền hành. Ngay trong thời kháng chiến đã bầy ra trò đấu tố để giết thêm những thành phần dân Việt không thể chấp nhận chủ nghĩa cộng sản. Hòa bình rồi, thì tiêu diệt các nhà trí thức, văn nghệ để không còn ai dám nêu ý kiến khác với đám lãnh tụ đảng. Trong tất cả thời gian đó, đảng vẫn hô hào “đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết!”<br />Khi đất nước đã thống nhất, chính sách kinh tế của đảng đã dẫn cả nước vào con đường nghèo đói. Chỉ vì họ nhắm mắt theo các giáo điều Mác Lê nin, áp dụng những chính sách của các quan thầy Trung Cộng, Liên Xô. Ðến lúc Liên Xô sắp sụp đổ hoàn toàn thì đảng Cộng Sản Việt Nam mới chạy theo xin hầu Ðặng Tiểu Bình, thay đổi kinh tế, dần dần biến đảng cộng sản thành một đảng tư sản đỏ, thiết lập một xã hội tư bản hoang dã như ở Âu Mỹ vào thế kỷ 19!<br />Họ đã đánh lừa cả nước, nay vẫn tiếp tục. Vẫn bắt các đảng viên học tập chủ nghĩa Mác trong lúc các cán bộ chỉ lo làm giầu, tiếp tay với tư bản nước ngoài bóc lột công nhân! Và vẫn khoe “đảng ta” có công “đổi mới!” Cả nước biết rằng nếu không đi vào con đường sai lầm thì không ai cần đổi mới! Nếu không vì đảng Cộng Sản phí phạm hai thế hệ dân Việt Nam, đưa đất nước đến đường cùng, thì không cần gì phải đổi mới cả. Nhưng không ai được nói như vậy. Có 600 thứ báo, đài để ca ngợi đảng, những người viết lời ca ngợi cũng biết là họ nói lời dối trá, nhưng vẫn phải nói! Lãnh tụ đảng, các đảng viên, và các nhà báo “hiểu ngầm” với nhau. Dân chúng giả bộ ngu, cũng đi đêm với cảnh hiểu ngầm đó.<br />“Và cái sự đi đêm ấy mở đường cho nhiều hoạt động giả dối tiếp tục nẩy nở.”<br />Vương Trí Nhàn đặt một câu hỏi cho đồng bào trong nước: “Bên cạnh cái lỗi của những người làm chùa giả, đâu là cái lỗi của mỗi chúng ta?”<br />Ðúng như vậy. Tại sao chúng ta không ngượng ngùng khi nghe và nói mãi những lời giả dối? Trong một đoạn sau, Vương Trí Nhàn viết rõ hơn: “Sự thờ ơ với cái giả chỉ là một biến tướng của sự thờ ơ với cái thực.”<br />Hơn 600 cái miệng báo đài chấp nhận lối nói dối vì không ai quan tâm đến sự thật. Người ta đã sống quen trong cảnh giả trá, mà hàng ngày, Vương Trí Nhàn viết, “chúng ta giấu kín và che phủ bên ngoài bằng những lời lẽ hoa mỹ.”<br />Những người như nhà văn Trần Khải Thanh Thủy, Dương Thu Hương, đã can đảm nhìn vào sự thực, nói lên sự thực không úp mở. Vương Trí Nhàn chỉ bàn chuyện chùa giả, nhưng trong lời văn của ông chúng ta thấy cả nỗi thao thức về cả hiện trạng và tương lai đất nước.<br /><br />Ngô Nhân Dụngthuykuehttp://www.blogger.com/profile/11377510706382381616noreply@blogger.comtag:blogger.com,1999:blog-2791392219377915741.post-1580793956832590462009-03-07T23:02:00.000-08:002009-05-16T07:53:41.472-07:00Tôi chỉ sợ mình nhìn sai...<span style="color: rgb(204, 0, 0); font-style: italic;">Chính thức thì ông làm ở NXB Hội Nhà văn, nhưng độc giả lại biết đến Vương Trí Nhàn với tư cách là một nhà nghiên cứu phê bình nhiều hơn. Đặc biệt, vài năm trở lại đây, một loạt bài viết về "thói hư tật xấu", về văn hóa ứng xử của người Việt được ông cho đăng trên các báo, ít nhiều gây sự chú ý của dư luận. Ông từng bày tỏ quan điểm: "Tôi chỉ sợ mình nhìn sai chứ không sợ mình nhìn vào cái xấu"...</span><br /><br /><span style="color: rgb(51, 102, 255);">-Được biết, ban đầu ông cũng ôm mộng sáng tác, nhưng sau một thời gian, ông lại chuyển sang nghiên cứu và viết phê bình?</span><br /><br />+ Đầu tiên tôi cũng thích sáng tác. Đặc biệt khi vào bộ đội, nhu cầu viết lách là rất lớn. Các cuộc thi thơ hay ca dao do các Sở Văn hóa tổ chức, tôi đều nhiệt tình tham gia, nhưng đến một thời điểm mới nhận ra rằng, về sáng tác, mình không thể nào bằng Nguyễn Khoa Điềm, Đỗ Chu, Phạm Tiến Duật... được. Trong một dịp, được cầm trên tay tập thơ "Sức mới", đọc thấy rất nhiều nhà thơ tên tuổi là bạn bè mình và đặc biệt, những cảm xúc của bạn trong tập thơ, mình đồng cảm được. Vậy là cầm bút bình một vài bài thơ trong đó. Bài viết được đăng trên báo Văn Nghệ năm 1964. Đó là bài viết phê bình đầu tiên của tôi.<br /><br /><span style="color: rgb(51, 102, 255);">- Nói như vậy nghĩa là ông đã may mắn, bởi, chỉ một thời gian ngắn, ông đã nhận ra mình, biết được thế mạnh và con đường đi của mình…</span><br /><br />+ Đúng như anh nói. Tôi không mất quá nhiều thời gian để tìm đường đi. Đó cũng có thể gọi là may mắn được nhỉ. Vì đến giờ mình cũng đã có hơn 40 năm làm phê bình rồi.<br /><br /><span style="color: rgb(51, 102, 255);">- Hơn bốn mươi năm "làm dâu trăm họ", làm cách nào mà ông có thể theo nghề một cách bền bỉ và trường kỳ đến như vậy?</span><br /><br />+ Ở bộ đội về năm 1968, mặc dù cũng có một số bài viết được đăng báo nhưng tôi chưa có ý nghĩ theo nghiệp phê bình lý luận. Thậm chí, nhà thơ Vũ Cao, khi đó là Tổng biên tập Văn nghệ Quân đội bảo tôi: "Nhàn về đây làm phê bình được thì làm, không thì làm... kế toán". Về Văn nghệ Quân đội tôi mới thực sự xác lập cho mình một ý thức viết chuyên nghiệp. Đầu tiên phải yêu công việc của mình. Tức là anh phải có "lửa" với nghề. Tôi nghĩ để có thể trường kỳ được là tôi đã "phả" được vào trong các bài phê bình chất văn học. Khi viết, tôi cảm tưởng như mình đang sáng tạo chứ không phải nghiên cứu dưới góc độ hàn lâm như nhiều nhà phê bình khác. Đó cũng là nét riêng của tôi. Nhưng nói thật là nhiều khi cũng buồn, bởi trong đời sống văn học, những nhà phê bình luôn bị coi như phận làm "lẽ", phận "ăn theo" nhà văn.<br /><br /><span style="color: rgb(51, 102, 255);">- Tôi lại nghĩ phê bình và các tác phẩm luôn luôn có mối quan hệ tương hỗ lẫn nhau. Nhưng nhìn vào đời sống văn nghệ thì thấy mối quan hệ này chưa thật tương xứng. Các nhà phê bình tên tuổi thì hình như ngày một ngại viết. Đa phần chỉ còn những cây bút không chuyên. Mà phần nhiều mới "bình", chứ chưa "phê"?</span><br /><br />+ Ý kiến của anh không sai nhưng nếu nói sâu xa thì điều ấy chỉ đúng với thời đại ngày nay, tức là các sản phẩm văn học đã thành hàng hóa và ít nhiều cũng phải được các nhà phê bình gợi mở, mổ xẻ giúp người đọc. Trong lịch sử, văn học ra đời khi chưa có phê bình. Ví như Trung Quốc, có hàng nghìn nhà văn tên tuổi nhưng các nhà phê bình chỉ đếm được trên đầu ngón tay. Nước ta cũng vậy. Nên hiện vẫn tồn tại một nền phê bình chậm và chưa tương xứng.<br /><br /><span style="color: rgb(51, 102, 255);">- Vậy có một hướng giải quyết nào để gần hơn, tương xứng hơn giữa phê bình và sáng tác không, thưa ông?</span><br /><br />+ Văn học phải phát triển hơn nữa. Báo chí và các ngành xã hội phải phát triển hơn nữa. Vừa làm vừa phải ngoái lại nhìn. Từ trước đến nay mình chỉ quen làm mà chưa quen nhìn.<br /><br /><span style="color: rgb(51, 102, 255);">- Vậy dưới con mắt của một nhà phê bình, ông nhận xét như thế nào về vị trí của văn chương Việt Nam so với thế giới?</span><br /><br />+ Tôi xin khất câu trả lời này. Có một thực tế ở Việt Nam, học sinh phổ thông khi học văn, chỉ được nhà trường giảng dạy rất sâu về từng tác giả và tác phẩm nhưng ít khi có được một cái nhìn tổng thể. Chưa một ai khái quát được nền văn học nước nhà mà chỉ nói chung chung. Kiểu như, chúng ta có một nền văn hóa tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc... Đây là một vấn đề tôi cũng rất muốn tìm hiểu nên chưa thể trả lời bạn được. Tuy nhiên, việc làm này là công phu và không thể một sớm một chiều có lời giải.<br /><br /><span style="color: rgb(51, 102, 255);">- Khi đã có một cái tên, thậm chí giải thưởng Hội Nhà văn của ông cũng là một cuốn sách phê bình văn học (Cây bút đời người) nhưng rồi ông lại chuyển sang nghiên cứu văn hóa?</span><br /><br />+ Văn học là một bộ phận của văn hóa. Hai phạm trù này rất gần nhau. Năm 1989 tôi đã có những bài viết về văn hóa và xem nó như một nhu cầu tự thân. Vừa rồi, Hội Nhà văn đặt tôi viết một cuốn sách "Nhìn văn học dưới góc độ văn hóa" qua đó mình càng có điều kiện để bước chân vào nghiên cứu văn hóa. Tất nhiên, thành công đến đâu thì tôi chưa dám khẳng định.<br /><br /><span style="color: rgb(51, 102, 255);">- Được biết, trước đây Giáo sư Trần Quốc Vượng đã có ý định làm cuốn sách "Thói hư tật xấu" nhưng rồi chưa kịp. Có phải ông muốn kế tiếp công việc còn dang dở của GS Vượng?</span><br /><br />+ Việc này có lần tôi nói rồi. Từ khi cầm bút viết phê bình văn học, tôi phần lớn tập trung vào cái dở, cái chưa được của nhà văn cũng như tác phẩm. Có người bảo tôi là tà tâm, tầm thường nhưng tôi không sợ. Tôi chỉ sợ mình nhìn sai chứ không sợ mình nhìn vào cái xấu. Mà nhà văn, đầu tiên phải là một con người bình thường. Từ đó tôi mới có ý định đi tìm những "thói hư tật xấu" của người Việt.<br /><br /><span style="color: rgb(51, 102, 255);">- Nhưng nói chung, tâm lý người đời từ trước đến nay chỉ thích khen, chê là khó chịu, cho dù anh chê đúng. Với việc làm này của ông ít nhiều sẽ gây ra tranh luận?</span><br /><br />+ Nhiều chứ. Sự phản ứng ấy là hoàn toàn hiểu được. Tôi nhớ có lần Nguyễn Minh Châu viết một truyện ngắn đưa cho Triệu Bôn xem, xem xong Triệu Bôn nói đại ý truyện không mới, chỉ ở mức thường. Vậy mà Nguyễn Minh Châu giận mãi. Đến một hôm hai người tắm chung một buồng, Triệu Bôn mới dám khẽ khàng hỏi: "Chẳng nhẽ tôi nói không đúng sao?". Lúc này Nguyễn Minh Châu mới nhăn mặt bảo: "Đúng nhưng mà vẫn...tức". Nói vậy để thấy rằng, một tên tuổi như anh Châu mà vẫn có những cảm giác ấy.<br /><br /><span style="color: rgb(51, 102, 255);">- Thì đến thi sĩ Tản Đà đầu thế kỷ 20 cũng bảo: "Dân hai lăm triệu ai người lớn/Nước bốn ngàn năm vẫn trẻ con..."…</span><br /><br />+ Đấy, các cụ ngày trước rất tinh đấy nhé. Họ nhận thức được cả nhưng thay đổi thì chưa tìm được cách đi đúng hướng.<br /><br />- <span style="color: rgb(51, 102, 255);">Nhưng tôi được biết trong bài trả lời phỏng vấn một tờ báo điện tử cũng về chủ đề này, đến phút 24 ông đã nổi giận bỏ về và thề không bao giờ gặp người phóng viên kia nữa?</span><br /><br />+ Giờ thì tôi không giận họ nữa. Tôi hiểu, nhiều khi họ cũng muốn có những cách làm, cách "gài" phát ngôn của nhân vật để bán được báo, được nhiều người đọc. Tôi bảo tôi không giận nữa vì chuyện cũng đã qua và... cũng chẳng biết giận ai. Khi phỏng vấn, phóng viên đó đã không dám xưng tên họ và khi đăng bài lại ký là "nhóm phóng viên". Thật lòng qua dịp đó cũng là cơ hội cho tôi học thêm về sự tha thứ<br /><br /><span style="color: rgb(51, 102, 255);">- Ở Trung Quốc cũng đã có hai cuốn sách rất nổi tiếng là "Người Trung Quốc xấu xí" và "Người Trung Quốc tự trào" họ lên án những tính xấu của dân tộc họ rất nặng nề và gay gắt, nhưng đó lại là những cuốc sách rất được đón nhận. Mà đúng ra, thấy được cái xấu, cái yếu của mình để rồi khắc chế nó mới thực sự là kẻ mạnh?</span><br /><br />+ Thì rõ là thế. Ngày trước chúng ta phải có những sách lược và cách nhìn nhận mình cho phù hợp với nhiệm vụ thời đó nhưng giờ thì nên thay đổi. Xưa nay kẻ tự biết cười mình, biết tự trào mới là người giỏi.<br /><br /><span style="color: rgb(51, 102, 255);">- Vậy để có cơ hội "nhận ra mình", cơ bản chúng ta phải làm gì thưa ông?</span><br /><br />+ Tôi cho rằng khả năng tự nhận thức của mỗi người là quan trọng nhất.<br /><br /><span style="color: rgb(51, 102, 255);">- Đọc Vương Trí Nhàn, tôi thấy cách làm của ông là phê bình văn học dưới góc nhìn văn hóa. Qua văn hóa để thấy văn học. Điều này không giống như nhiều người khác?</span><br /><br />+ Các nhà phê bình phần lớn là làm tự phát. Có nhà giáo viết sách là để học trò học và nể, có nhà nghiên cứu viết là để lấy học hàm học vị. Còn tôi, tôi mong muốn có dịp đi được đến tận cùng vấn đề một cách sâu, rộng. Các bài viết của tôi không dành cho học sinh đang theo học những giáo trình hiện nay. Nó dành cho người nào có thể chia sẻ ít nhiều trong đó…<br /><br /><span style="color: rgb(51, 102, 255);">- Và trong một số những bài viết, ông đã gợi mở được nhiều điều, hữu ích cho việc xây dựng và quy chuẩn những nét văn hóa, đặc biệt là văn hóa ứng xử. Nhưng cũng mạn phép để nói, sự nhìn nhận của ông có vẻ... tiêu cực và thiếu lạc quan quá. Kiểu như, bác sĩ nhìn đâu cũng thấy vi trùng vậy. Có phải ông nghĩ: "Yêu nên cho roi cho vọt..."</span>?<br /><br />+ Không phải thế. Tôi chỉ muốn nói rằng, dù gì con người cũng phải tự nhận thức được mình và phải biết ước mơ. Nếu tôi không làm thì thể nào cũng có người khác làm. Nó là nhu cầu thực của cuộc sống…<br /><br /><span style="color: rgb(51, 102, 255);">- Dạo này ông đang viết gì?</span><br /><br />+ Tôi dành thời gian tổ chức lại bản thảo "Văn học Việt Nam thế kỷ XX dưới góc nhìn văn hóa". Đây là cuốn tôi tâm huyết nên sẽ cố gắng chặt chẽ, viết theo tiêu chuẩn quốc tế. Tất nhiên đó chỉ là mong muốn, còn làm được đến đâu lại phụ thuộc vào nhiều yếu tố.<br /><br /><span style="color: rgb(51, 102, 255);">- Xin cảm ơn ông về cuộc trò chuyện cởi mở này</span><br /><br /> Nguyễn Văn Quân (thực hiện) 06/03/2009<a href="http://vnca.cand.com.vn/vi-VN/doisongvanhoa/2009/3/53578.cand"><u><em>CAND</em></u></a>thuykuehttp://www.blogger.com/profile/11377510706382381616noreply@blogger.comtag:blogger.com,1999:blog-2791392219377915741.post-38133627218872128242009-02-18T01:46:00.000-08:002009-07-13T01:43:27.709-07:00Cần chống lại căn bệnh vô cảm của đô thị<a onblur="try {parent.deselectBloggerImageGracefully();} catch(e) {}" href="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEj6IvwUslngMeSnNv7wD8fpx3L7Bt2kJ_AQIG-iQ3dGMVwzMMA2CWwYCWliW5M4CAG41CWw89Okn7-XX4wPFVppqJwX8Sog_GNtCb4-FZfjnnEwgBVLY5dF2kAylUSU_eTAm8tMms0ed6Q/s1600-h/-+da+bai+pho+co.jpg"><img style="margin: 0pt 0pt 10px 10px; float: right; cursor: pointer; width: 320px; height: 240px;" src="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEj6IvwUslngMeSnNv7wD8fpx3L7Bt2kJ_AQIG-iQ3dGMVwzMMA2CWwYCWliW5M4CAG41CWw89Okn7-XX4wPFVppqJwX8Sog_GNtCb4-FZfjnnEwgBVLY5dF2kAylUSU_eTAm8tMms0ed6Q/s320/-+da+bai+pho+co.jpg" alt="" id="BLOGGER_PHOTO_ID_5304072566710132562" border="0" /></a><br /><br /><span style="font-style: italic; color: rgb(204, 0, 0);">Vài năm nay, nhà nhà phê bình, nghiên cứu văn hóa Vương Trí Nhàn tiến hành công việc khá đặc biệt là sưu tầm, tuyển chọn và thể hiện những bài viết về văn hóa, đời sống người Việt. Những bài viết của ông có một giọng điệu riêng, khó lẫn, với những nhận xét khá thâm thúy. Ông chia sẻ với Đất Việt về thủ đô Hà Nội.</span><span id="fullpost"> <br /><br /><span style="color: rgb(51, 102, 255);"><span style="color:#000000;"><strong>- Nói đến văn hóa Thăng Long là người ta nói đến “Văn hóa Kẻ chợ, ông có thể giải thích rõ hơn khái niệm này của cư dân Thăng Long xưa?</strong></span></span><br /><br />- Thủ đô là tinh hoa của cả nước, là nơi gạn lọc những giá trị tốt đẹp từ các nơi khác đến. Hà Nội xưa có các phố hàng Lọng, hàng Nón, hàng Ngang... tức là những cái chợ mà người ở các nơi mang hàng đến và sự thực đây là một đấu trường mà ai giỏi, ai tài hơn thì người đó thắng. Hàng bán ở quê thế nào cũng được nhưng khi mang lên kinh kỳ mà kém thì không thể trụ được. Người nào kém cỏi không thích ứng được với thủ đô thì sẽ bị loại.<br /><br />Vậy thì “Văn hóa kẻ chợ” là ở chỗ đó đấy. Nó là một mô hình, nói như Chiếu dời đô của Lý Công Uẩn, nơi mở ra cái thế để làm ăn, cái thế để xây dựng đất nước, là trung tâm đầu não của cả nước, nơi mà người ta đến để đua tranh, nơi cái tốt thắng cái xấu, cái hơn thắng cái kém. Khi đó mới đạt đến độ văn minh Kẻ chợ.<br /></span><span style="color:#000000;"><span id="fullpost"><br /></span></span><span id="fullpost"><span style="color: rgb(51, 102, 255);"><span style="color:#000000;"><strong>- Thăng Long - Hà Nội là nơi ai cũng đến và ở lại được. Có lẽ thế bởi vì phải đến với đất Kẻ chợ này thì những tài năng, sáng tạo mới thăng hoa?</strong></span></span></span><span style="color:#333333;"><strong><span id="fullpost"><br /><br /></span></strong></span><span id="fullpost">- Chất chính của Hà Nội là chất tinh hoa, chất gạn lọc. Với người Hà Nội nên quên đi chuyện về gốc gác mà nên nghĩ rằng ở đó là tinh hoa của tất cả địa phương, trở thành hướng phấn đấu của người ta và hàng ngày người ta sống theo hướng đó để nhân mình lên.<br /><br />- Phải công nhận rằng số lượng lớn người lao động các tỉnh lẻ đổ về đã tạo cho đô thị Hà Nội một vẻ nhếch nhác...<br /><br />- Có một thực trạng là thời trước người nông thôn lên thủ đô có ý thức đua tranh, học hỏi. Họ coi lên đây là bước tiến đời sống của họ và họ sẽ mở mày mở mặt với cả nước.<br /><br />Gần đây do chiến tranh, do bao nhiêu năm đời sống kinh tế khó khăn con người ta ở các vùng nông thôn khác nhau dồn lên thành thị ăn ở tạm bợ. Người ta không biết “sợ” Hà Nội mà tự coi làng quê là cái mẫu mực của mình, không chịu học theo phong cách của người Hà Nội mà còn cho rằng thủ đô là dở.<br /><br />Thực ra Hà Nội là cái tốt đẹp vì nó đã được gạn lọc qua bao đời. Người mới đến phải trông vào đấy mà học hỏi nhưng rất nhiều người nhập cư không tự biến cải mình theo những đòi hỏi của xã hội hiện đại mà mang nguyên nếp sống của các tỉnh về.<br /><br />Chính vì thế họ tạo thành một mớ tạp nham mà tôi có thể dùng một cụm từ là “Hà Nội chưa bao giờ trở thành chính mình” thì đã bị đánh mất. Thế cho nên nó không là mẫu mực để ai theo.<br /></span><strong><span style="color:#333333;"><span id="fullpost"><br /></span><span id="fullpost"><span style="color: rgb(51, 102, 255);">- Vậy cái thời Nguyễn Công Trứ nói: “Chẳng thơm cũng thể hoa nhài/ Dẫu không thanh lịch cũng người Tràng An” ấy không có thực sao?</span></span></span></strong><strong><span style="color:#000000;"><span id="fullpost"><span style="color: rgb(51, 102, 255);"> </span><br /><br /></span></span></strong><span id="fullpost">- Tôi không tán thành câu đó. Tôi cho rằng đó là cái bệnh xấu của thành thị. Đó chỉ là cái hão, cái giả thôi nếu cứ tự nhận là để bắt nạt những người nhà quê đi chăng nữa thì cái đó cũng vô nghĩa. Người tự trọng không bao giờ nên tự hào vì điều đó.<br /><br />Còn chính người Hà Nội thật sự thì phải nghĩ rằng mình chưa là mức của người Hà Nội, mình phải cố gắng hơn nữa, phải trở thành con người mẫu mực của xã hội, tức là phải thanh lịch thật. Cái đó mới đích thị là người Tràng An.<br /><br />Phố cổ Hà Nội<br /><br />Quan niệm về thủ đô của chúng ta vẫn còn đơn giản, nhiều sai lầm, giả tạo. Có thể nói một điều là nếu ai chưa tốt, nếu ai chưa thanh lịch, nếu ai chưa sống với sự hiểu biết về xã hội ta thì chưa xứng đáng là người Hà Nội.<br /><br /><span style="color: rgb(51, 102, 255);">- Vậy trong địa bàn với số lượng người nhập cư lớn hiện nay khái niệm về “người Hà Nội” sẽ như thế nào?</span><br /><br />- Tôi không nói đến chuyện ai sinh ra ở Hà Nội. Thực chất số người sinh ra ở Hà Nội ít thôi còn lại là nhập cư ở các tỉnh khác về. Thật khó xác định một tính cách cho người Hà Nội. Chúng ta nên dùng khái niệm "những người sống ở Hà Nội"<br /><br /><span style="color: rgb(51, 102, 255);">- Giọng nói Hà Nội không còn là một chuẩn mực nữa, lý do vì đâu?</span><br /><br />- Những năm 50, 60 tiếng Hà Nội còn tốt lắm. Ai ở nơi khác đến HN cũng muốn giấu đi tiếng nói địa phương mình. Đó là điều rất bình thường. Còn bây giờ người ta cứ bê nguyên xi tiếng địa phương mình lên, không sửa gì, cũng không biết ngượng là gì. Đáng lẽ tiếng thủ đô luôn là tiếng chuẩn. Vậy mà hiện nay trẻ em Hà Nội cũng ngọng rất nhiều, giữa “n” và “l” không kém ai. Ngọng đã là một cái dở rồi nhưng lại không biết xấu hổ về cái dở của mình kể cả những người lên tivi, ở những hội thảo rất lớn vẫn nói ngọng.<br /><br />Nếu có ý thức hoàn chỉnh mình, ý thức làm cho mình mẫu mực và nghĩ rằng thủ đô phải chuẩn thì chúng ta phải tự “gọt” mình theo cái chuẩn ấy. Đằng này người ta không làm việc đó. Người ta mang nguyên xi nếp sống tự do của người nông dân ra sống ở thành thị, người ta lại theo nếp sống cổ lỗ của người nông thôn, của nền kinh tế cũ. Chính cái đó làm cho Hà Nội không bao giờ trở thành chuẩn mực của chính mình cả.<br /><br /><span style="color: rgb(51, 102, 255);">- Vậy theo ông điều gì làm nên bản sắc chung của đô thị?</span><br /><br />- Cái đó phụ thuộc vào sự trưởng thành chung của ý thức con người. Xã hội ta lúc nào cũng nhốn nháo. Mọi người bị cuốn đi, quay cuồng trong một đời sống quá hối hả. Cuộc kiếm sống, lo ăn, lo mặc chi phối con người ta khiến người ta lúc nào cũng vội vã, tất bật.<br /><br />Bao giờ xã hội trở lại là một xã hội dân sự bình thường, mọi người làm việc bình thường. Trong trường hợp xã hội phải trưởng thành lên, con người phải có ý thức kiếm sống thế nào, ý thức nhận ra thế nào là đô thị, trong đô thị này mình phải sống ra sao... người ta phải có một trình độ khác đi so với trình độ dân trí chung. Nếu Hà Nội vẫn cứ lộn xộn thì những cái tốt đẹp dù có nảy lên sẽ lại mất đi, khó định hình.<br /><br /><span style="color: rgb(51, 102, 255);">- Điều đó chính là cái hồn phố đúng hơn là hồn đô thị?</span><br /><br />- Rõ ràng bản sắc đô thị bắt nguồn từ tâm hồn con người. Một khi con người bị cuốn đi trong vòng xoáy hối hả của cuộc sống sẽ trở nên vô cảm, không thể nhận ra được. Vậy thì trước hết phải chống lại căn bệnh vô cảm vốn đang lây lan nhanh trong đời sống đô thị.<br /><br />- <span style="color: rgb(51, 102, 255);">Xin chân thành cảm ơn ông! </span><br /><br />Thanh Thuận<br />18/02/2009<a href="http://www.baodatviet.vn/Home/Vuong-Tri-NhanCan-chong-lai-can-benh-vo-cam-cua-do-thi/20092/30721.datviet"><u><em>baodatviet</em></u></a></span>thuykuehttp://www.blogger.com/profile/11377510706382381616noreply@blogger.comtag:blogger.com,1999:blog-2791392219377915741.post-80328188880740338712009-02-06T01:11:00.000-08:002009-02-06T01:13:21.824-08:00nhắc nhau mỗi khi bàn chuyện hội nhập !-- Hà Nội đẹp lắm nhưng cứ mãi mãi là tiềm năng. <br />---Chơi Hà Nội nửa ngày là hết.<br />--- Khách nước ngoài qua đây chỉ để đến Sapa, Vịnh Hạ Long, chứ nếu có thể đến thẳng các nơi kia thì họ cũng chẳng cần ghé Hà Nội làm gì.<br />Đọc những dòng thư bàn về du lịch Hà Nội mà chua xót. Lượng khách nước ngoài không giảm đi thì cũng không tăng lên. Hoặc nếu có tăng, cũng còn lâu mới tương xứng với khả năng ta có. Mà làm sao ư, làm sao họ ở lâu được, khi cách tổ chức hết sức luộm thuộm, người hướng dẫn kém cỏi, giao thông đầy hiểm họa, người dân chỉ tìm cách xoay tiền của họ chứ không phải là đón họ như quý khách. Khi phải ngồi xích lô mà tham quan phố phường – chứ làm gì còn vỉa hè mà đi --- và miệng thì bịt chặt trong chiếc khẩu trang che bụi,chắc nhiều du khách không khỏi tự nhủ thầm là chỉ đến một lần chứ không quay lại nữa ! <br />***<br />Đón người đã vậy mà đi ra với người thì cũng chẳng khá gì hơn. Chẳng hạn sang xứ người ta ít ngày, dân du lịch người Việt như chim sổ lồng, bay loạn xạ,chẳng chịu đi theo hướng dẫn, chỉ quẩn vào với nhau rượu chè, có khi đái ngay cả trên xe ô tô. Đi làm thuê thì bỏ hợp đồng, trốn xưởng ra ngoài làm ăn chui nhủi, đến mức cả những thị trường đầy tiềm năng cũng “ lạy cả nón “, chịu không dám nhận lao động Việt Nam nữa.<br />Lại có tin nhiều nước có biển cấm không cho tàu Việt Nam vào cảng. Lý do: tàu mình bé con con, trang bị cũ kỹ, xả ngay chất thải xuống biển ; thủy thủ lên bờ tiếng không biết, luật pháp không hay, dễ làm càn làm bậy. Nghe cũng có lý, giá địa vị mình, mình cũng làm thế !<br />***<br />Thời gian 1986-1989, tôi làm chuyên gia xuất bản ở Moskva, cũng là thời gian người Việt sang Nga như trảy hội. Sân bay Seremetsevo, vào những giờ có chuyến bay về Hà Nội, nhìn đâu cũng thấy lớp lớp đầu đen mải miết kéo hàng và chen bật cả người ta đi. Vì qua nhiều hàng cấm chỉ sợ vào không lọt. Vì làm thủ tục lâu, chỉ sợ lỡ thời hạn. Dân các nước khác, có chuyến bay cùng giờ, ớn đến cổ, và chịu không nổi, phải đề nghị xếp riêng giờ cho các chuyến bay về Việt Nam. Miễn không phải vào cửa kiểm soát cùng với dân mình, còn họ đi trước hay đi sau cũng được. <br />Nhân chuyện này tôi mới hiểu tại sao, người ta kể là dân Việt ở nhiều nước bên châu Âu, chỉ biết sống túm tụm với nhau thành những ghetto, chứ không sao hòa hợp được với người bản xứ. Cái sự sống “vón cục” lại và chỉ ”trơ khấc “ với nhau như thế này, từ vài chục năm nay cản trở ta rất nhiều . Nhưng mải kiếm ăn, mấy ai để ý. <br />***<br />Trên báo Người Hà Nội, Tô Hoài từng có bài viết kể chuyện mươi năm nay, từ Đồng Tháp Mười trong nam đến chung quanh Hà Nội, người ta dùng băng cát-xét để bẫy các loài chim và mang từng xâu bán ra sao. Rồi ở Tam Đảo, người ta tận diệt bướm. Cũng ở Tam Đảo Ba Vì, dân tứ chiếng mang thang dây và cưa máy đi tróc nã những cụm phong lan tự nhiên. Tác giả Dế mèn khép lại bài bằng câu hỏi. “ Rồi một ngày kia trên mặt đất, trên bầu trời, sẽ hết chim hết hoa, thì con người ở với ai? “.<br />Chuyện hôm nay của tôi không phải là chuyện chim chuyện hoa, mà là chuyện người. Cách nói quá lên như của Tô Hoài mang ý nghĩa một lời cảnh tỉnh. Nên tôi thường nhớ tới nó, thậm chí còn máy mồm muốn kể lại để người thân và bạn bè cùng suy nghĩ và bàn bạc, mỗi khi nghe mọi người hào hứng bàn chuyện Việt Nam gia nhập WTO .thuykuehttp://www.blogger.com/profile/11377510706382381616noreply@blogger.comtag:blogger.com,1999:blog-2791392219377915741.post-55393179310041296172009-01-28T19:45:00.000-08:002009-01-28T19:46:34.559-08:00HỘI NHẬP ĐỒNG NGHĨA VỚI … THÓMươi mười lăm năm trước dân ta đã thích xem thiên hạ người ta đá bóng lắm rồi , có điều hồi ấy làm gì đã có những chương trình truyền hình trực tiếp như bây giờ . Đến sớm nhất là những thông tin do đài hay báo cung cấp . Nhưng đó chỉ là kết quả trận đấu . Còn hình ảnh sẽ xem về sau . Mà cũng là gặp chăng hay chớ , may thì có không may thì chịu . Nếu có dịp viết hồi ký chắc anh em làm truyền hình hồi ấy kể ra được lắm chuyện gian nan trong việc xoay sở để kiếm một chương trình chiêu đãi bà con mê bóng đá cả nước .<br /> Nay nhờ nỗ lực liên hệ với các hãng tài trợ , các nhà đài đã luôn luôn có những chương trình trực tiếp để chiếu đều đều . Nhờ vậy có thể yên tâm nói rằng trong việc tiếp nhận thông tin thể thao , khán giả VN hoàn toàn bình đẳng với người hâm mộ thế giới .<br /> Tuy nhiên có một điều tôi không khỏi băn khoăn trước và sau khi được xem một trận đấu , ấy là những lời lẽ của bình luận viên và cả những dòng chữ trên màn ảnh nhỏ: Các bạn vừa xem buổi truyền hình trực tiếp của đài chúng tôi, hoặc Chương trình do đài...( VN ) tường thuật trực tiếp từ .... Đại khái bao giờ cũng là như vậy .<br /> Về nguyên tắc , cả hai cụm từ đài chúng tôi ( cả đài TW lẫn đài địa phương ) lẫn truyền hình trực tiếp đều đúng . Tôi chỉ thấy gợn khi kết hợp chúng với nhau . Theo nghĩa đen , ai cũng hiểu nếu truyền hình trực tiếp tức là đài phải mang máy quay ra sân , người quay là của mình , rồi đạo diễn là của mình , cho khán giả xem góc độ nào là do đạo diễn mình quyết định . Trong thực tế , tất cả các việc này các đài lớn người ta đã làm . Đài ta chỉ còn có mỗi một việc là “bắt” những chương trình của người rồi chuyển vào kênh thích hợp , phát cho dân xem , kèm theo những lời bình luận của phóng viên VN . Vậy nói cho nghiêm chỉnh , đó có phải là đài chúng tôi truyền hình trực tiếp , tường thuật trực tiếp không ? Hay ta nên nói là một sự tiếp hình , tương tự như tiếp âm mà bên truyền thanh lâu nay vẫn dùng ?<br /> Trong thực tế thông tin hàng ngày, còn nhiều trường hợp không được chính danh tương tự .Không kể các nhà báo quốc tế thường xuyên lấy bài của người ta rồi xoay lại chút ít cho hợp với yêu cầu trong nước , và đàng hoàng ký tên mình ở cuối bài --- ngay trong nghiên cứu khoa học ( đây tôi nói khu vực tôi biết là khoa học xã hội ) , một số giáo sư tiến sĩ cũng chiếm dụng vốn của người ta một cách khá hồn nhiên. Đầu đuôi cũng chỉ vì ít người làm nghiên cứu ở ta có khả năng sử dụng ngoại ngữ một cách thành thạo , mà ngành thông tin khoa học lại quá kém . Thành ra chỉ cần đọc , hiểu và viết lại một cách chính xác các thứ kiến thức mới mẻ ở nước ngoài cũng đã oai lắm . Thế nhưng đáng lẽ chỉ nên tự xem như văn phòng đại diện cho một tư tưởng nào đó ( như các đại diện của BP của Honda ... bên thương nghiệp ) thì người ta lại làm như mình phát minh ra những tư tưởng cao xa kia và thản nhiên ngồi cho đồng nghiệp chiêm ngưỡng . <br /> Nhìn sang khu vực tiếp nhận văn hoá : một số ngành nghề ở nước ta vốn là do người mình đi nước ngoài học được rồi truyền nghề cho nhau , cố nhiên về sau ta cũng có thêm bớt chút ít và đã thành một mặt hàng truyền thống , song suy tận gốc vẫn là ngoại nhập . Thời phong kiến các làng nghề vẫn có ghi chép rõ ràng nghề này do cụ A. cụ B . đi sứ học được rồi dạy cho dân làng . Thế nhưng gần đây nhiều cuốn sách viết về lịch sử các nghề cổ truyền ở ta ( ngay cả sách giáo khoa dạy ở các trường ) cứ lờ hẳn đi cú hích ban đầu ấy , coi như cụ A. cụ B. phát minh ra nghề luôn.Câu chuyện của các bạn làm truyền hình bóng đá do đó chỉ bộc lộ cho thấy một cách làm cách nghĩ có ở nhiều ngành khác. Một sự vô ý , chưa tách được mình ra khỏi người. Mà khách quan lại như là thiếu sòng phẳng .thuykuehttp://www.blogger.com/profile/11377510706382381616noreply@blogger.comtag:blogger.com,1999:blog-2791392219377915741.post-26524858753440806832009-01-28T19:35:00.000-08:002009-01-28T19:36:00.695-08:00NÂNG CHẤT KHÁI QUÁT, ĐÀO TẠO TÀI NĂNG và... HỘI NHẬP1/ Trong phạm vi quy định của báo chí ở VN, thì việc theo sát tình hình thời sự phản ánh đời sống trong nước như TT đã làm thời gian vừa qua là rất tốt. <br /> Tôi chỉ đề nghị làm sao tờ báo tăng cường thêm phần khái quát. Khái quát có tính chất tổng kết, tình hình ở một khu vực nào đó, trong nửa năm một năm vừa qua, hoặc rộng ra dăm năm gần đây. Khái quát có tính chất dự báo về những biến động sắp tới. <br /> Xã hội nào cũng vừa lo làm, vừa phải có người như tách ra để nhìn chung về mọi bước đi của mình. Nhưng ở ta không có thói quen đó. Báo chí nói chung chưa làm được việc này. <br /> Trong sự bất lực chung, nếu có một nơi chúng tôi kỳ vọng thì đó chính là TT.<br /> Dù nói về quá khứ hay dự báo tương lai thì cũng cần mang tính chất phát hiện. Nhưng mọi kết luận lại cần để ngỏ để nhiều người cùng tham gia; nếu có những sự đóng góp mang tính cách phản bác để như là luôn luôn có những cuộc hội thảo nhỏ trên mặt báo thì càng tốt. <br /> <br />2/ Tờ báo muốn hay cần có những người viết giỏi. Tôi nói người viết nói chung vì ở đây bao gồm cả phóng viên của chính bản báo, lẫn các cộng tác viên ruột.<br /> Theo dõi lịch sử báo chí ở HN sau 1954 và cả nước sau 1945, tôi thấy ở ta quá ít ngòi bút viết báo có tầm cỡ, nghe nói đến tên là biết ngay người đó chuyên về lĩnh vực nào, đã có những bài báo nào gây được dư luận. Nói theo ngôn ngữ hiện nay là ít ai có thương hiệu.<br /> Tôi đề nghị TT nên chú ý đào tạo phóng viên biên tập viên của mình theo hướng này. Nên cho thấy tờ báo là tập hợp của những cá nhân giỏi A.B.C.D chứ không phải chỉ là một tập thể tài giỏi thông minh đoàn kết nhưng …vô danh.<br /> Tôi biết trước đây, việc hình thành những nhà báo lớn chưa thể đặt ra, và TT cũng không thể thoát khỏi cái lệ đó. Nhưng hoàn cảnh hiện nay đã khác, yêu cầu của xã hội với báo chí cũng khác. Nói nôm na là có các nhà báo lớn thì dân cũng được nhờ !<br /><br />3/ Đặc điểm lớn nhất của xã hội ta hiện nay là tập sống theo quy luật của thế giới , là hội nhập. Báo chí đã nói nhiều về hội nhập ở các lĩnh vực khác. Và báo chí cũng dần dà lo hội nhập, theo tôi biết chính TT hiện nay đã có bạn đọc ở nhiều nước, và nhiều người nước ngoài muốn hiểu tình hình VN, người ta cũng chọn ngay T T. <br /> Tôi chỉ đề nghị việc này được làm một cách có ý thức hơn nữa. Hãy cùng lo để mang lại cho TT một tầm vóc quốc tế, TT là nơi cho thấy tư duy làm báo, trình độ làm báo của người Việt.<br /> Nên xem đây là một tiêu chí phấn đấu lâu dài của tờ báo. Vì nói cho to tát ra, chỉ bằng cách đó chúng ta mới phục vụ tốt nhất cho tiến bộ xã hội và quyền lợi chân chính của đất nước.<br /> Đào tạo người cũng như chuyển biến cả một cách làm thật không dễ. Có nhiều việc phải nghĩ ngay từ hôm nay đi thì dăm năm sau mới có kết quả.thuykuehttp://www.blogger.com/profile/11377510706382381616noreply@blogger.comtag:blogger.com,1999:blog-2791392219377915741.post-80317495257326000832009-01-22T01:10:00.000-08:002009-01-22T01:11:27.575-08:00Hội nhập thúc đẩy đổi mớiTT - Giờ đây nhiều người kết thúc một ngày làm việc với ý nghĩ về hội nhập, mở mắt dậy với ý nghĩ hội nhập. Con đường vừa mở khiến ta bàng hoàng song nghĩ cho cùng, nó là kết quả của một cuộc khai phá kiên trì và ráo riết. <br /><br /><br />Đâu là mối quan hệ qua lại, đúng hơn là mối quan hệ biện chứng, giữa hội nhập và đổi mới trong hoàn cảnh của một nước VN ở giai đoạn bản lề này?<br /><br />* Hướng lớn mà hội nhập mang lại cho đổi mới <br /><br />Bung ra là hai tiếng tóm tắt chính xác cái tinh thần của không khí thời bắt đầu đổi mới. Người ta cảm thấy không thể sống nguyên như cũ được nữa. Tất cả có thể và phải làm khác. Không kịp nghĩ nhiều, chần chừ là có tội, lúc này hãy hành động đã. Đó là tình trạng của chúng ta 20 năm trước.<br /><br />Tiếp theo sự bung ra tự phát như vậy, có thể nói hội nhập hôm nay là cái bước đi tự giác. Hội nhập để thoát ra khỏi thế cô lập, hội nhập để thoát khỏi đói nghèo. Không chỉ là sự nối tiếp tự nhiên của chặng đường đã qua, hội nhập còn là cái bước đi kiên định của người đã tìm được phương hướng. Trước ta chỉ nói thay đổi. Nay đã có thể nói rõ hơn thay đổi bằng cách đi ra với thế giới. Trước ta sống bằng những chuẩn mực do chính ta đặt ra. Nay ta chia sẻ với nhân loại những giá trị chung. Không co mình lại giữ miếng. Không còn những e ngại, kể cả những hù dọa tưởng tượng tự mình nhát mình. Cái hướng lớn đã tìm thấy. <br /><br />* Việc trước mắt có, việc lâu dài có <br /><br />Thời bắt tay đổi mới ấy, ta chỉ biết đại khái rằng trên con đường làm giàu sẽ có những việc như buôn bán đối ngoại, tiếp nhận công nghệ tiên tiến, mời gọi đầu tư, làm hàng để xuất khẩu, đưa người đi lao động. Nay với việc hội nhập toàn diện, những việc lâu dài như cải cách hành chính, xác định hành lang pháp lý, tổ chức lại lực lượng lao động, xây dựng con người hiện đại... mới được đặt ra. Sở dĩ một chuyên đề được bàn bạc nhiều trong những ngày này là giáo dục đại học, lý do là vì như thế.<br /><br />Hội nhập như vậy mang lại cho đổi mới một nội dung toàn diện và cụ thể. Ai cũng biết dân mình có thói quen nước đến chân mới nhảy, và chín bỏ làm mười tùng tiệm thế nào cũng xong, cách nghĩ này đã kéo dài quá lâu. Nay chỉ cần nhìn vào quyết tâm làm lại đại học đủ thấy chúng ta bắt đầu tập phóng tầm mắt xa hơn, lo việc năm mười năm sau và tính cả chuyện đạt tới những chuẩn mực quốc tế. Rồi đây, những thay đổi trong cách nghĩ như thế sẽ nảy nở ngày một nhiều. Hội nhập thực đã đánh dấu một giai đoạn phát triển về chất của đổi mới.<br /><br />* Những đơn đặt hàng cấp bách <br /><br />Sau một thời gian bung ra, những yếu kém của xã hội có dịp bộc lộ đầy đủ hơn bao giờ hết. Chúng ta đã nói vì quá bức bách mà phải đổi mới. Song ngược lại cũng vì những yếu kém sâu xa ấy mà những bước đổi mới ban đầu không tránh khỏi vấp váp. Có bước trồi bước sụt. Có lúc đi đường vòng. Có nhiều việc mà ngày nay nếu được làm lại, chắc chắn sẽ làm khác.<br /><br />Đối diện với hội nhập tức là nhận lấy một thách thức. Đứng ở nhu cầu hội nhập mà xem xét thì có thể nói chính vì những yếu kém nói trên của đổi mới mà hội nhập được khởi động có phần chậm chạp và có lúc tưởng đã không nhích lên được khỏi những bước ban đầu. Càng ngày càng thấy chỉ hội nhập mới đóng được cái vai trò lớn lao là đặt hàng cho những đổi mới cụ thể. Nhu cầu thật rõ ràng và nghiêm khắc: không đổi mới không hội nhập được. Muốn vươn ra biển lớn thì chính con tàu phải được sắp xếp lại. Cái mệnh lệnh của đổi mới đã đến cả với những khâu công việc vốn lâu nay chìm trong bóng tối, do đó trì trệ nhất, chậm chuyển biến nhất.<br /><br />Theo nghĩa này, chính quá trình hội nhập tạo nên sức ép và mang lại cho đổi mới một động cơ thúc đẩy thật sự.thuykuehttp://www.blogger.com/profile/11377510706382381616noreply@blogger.comtag:blogger.com,1999:blog-2791392219377915741.post-27838523565475087162009-01-15T21:49:00.000-08:002009-01-15T21:50:44.648-08:00Nhờ hội nhập, một cuốn sách hay đã trở lại với bạn đọc!Nhà văn Nguyễn Quang Thiều từng nhận xét Nỗi buồn chiến tranh của Bảo Ninh chinh phục được bạn đọc nhiều nước trên thế giới trước hết là vì nó "đã chạm vào mẫu số chung của nhân loại". Theo nhà phê bình văn học Vương Trí Nhàn, đây cũng chính là lý do quan trọng nhất khiến cho cuốn tiểu thuyết này mấy năm qua lại gây một "cơn sốt nhỏ" ở VN. Chúng tôi xin giới thiệu bài viết của ông:<br /><br />Con số thống kê vốn xa lạ với giới xuất bản Việt Nam. Chưa nói Truyện Kiều, thơ Hồ Xuân Hương, những tác phẩm của Nam Cao, Vũ Trọng Phụng, Nguyễn Công Hoan, Nguyễn Huy Thiệp…tính đến nay đã in ra cả thảy bao nhiêu bản cũng không ai biết. Bởi vậy tôi không thể kể ra ở đây trong vòng vài năm nay, tổng số Nỗi buồn chiến tranh của Bảo Ninh được bán là bao nhiêu bản. <br /><br />Chỉ biết cuốn sách đã trở lại theo quy luật của thị trường. Có yêu cầu tức có sự thỏa mãn. Mà cái sự thỏa mãn của giới xuất bản với Nỗi buồn chiến tranh thì hào phóng lắm. Cùng lúc, mấy nhà xuất bản (Phụ nữ, Văn học, Hội nhà văn) cho in; sách tồn tại theo nhiều quy cách khác nhau, sau những tấm bìa khác nhau, trong nhiều xê - ri sách khác nhau. <br /><br />Khó có cuốn sách nào có số phận kỳ lạ như cuốn sách này. Thật chẳng khác số phận của những người con gái đẹp trong các truyện nôm dân gian. Ở đây hai chữ truân chuyên đã quá cổ lại có vẻ khá thích hợp.<br /><br />Thoạt đầu là những ngày đẹp trời. Cuốn tiểu thuyết đầu tay của một chiến binh được trích in trên Tạp chí Tác phẩm mới của Hội nhà văn. Rồi sau khi đổi tên thành Thân phận tình yêu thì được in ra rộng rãi. Được mang ra thảo luận trên báo Văn Nghệ với những lời khen ngợi thực lòng của những bậc đàn anh khó tính nhất. Cùng với Mảnh đất lắm người nhiều ma của Nguyến Khắc Trường và Bến không chồng của Dương Hướng, năm ấy Thân phận tình yêu được giải thưởng của Hội nhà văn Việt Nam, cái giải duy nhất trong vòng mười lăm năm nay thường được nhắc tới như bằng chứng về con mắt tinh đời của những người chấm giải.<br /><br />Cũng chỉ khoảng một năm sau khi xuất hiện, cuốn sách đã tìm được người muốn dịch ra tiếng nước ngoài để rồi bắt đầu một cuộc sống tưng bừng mà có lẽ là chưa tác phẩm Việt Nam nào có nổi. Trên đường đi đến nhiều nước khác nhau, đến đâu nó cũng tìm được độc giả. Xem cái cách nó nói về chiến tranh, người ta nhớ lại những Phía Tây không có gì lạ của E.M.Remarque, Mặt trời vẫn mọc của E.Hemingway… <br /><br />Nhưng ở trong nước thì lại có tình hình ngược lại. Gian truân ập đến. Xưa sao phong gấm rủ là - Giờ sao tan tác như hoa giữa đường “ (Kiều). Từ lẻ tẻ vài lời chê bai ban đầu thấy nổi bùng lên một phong trào phê phán. Cả những người năm 1991 hết lời khen ngợi cuốn sách qua năm 1994 cũng nói khác. Người ta hối hận. Có người kêu là mình bị lừa, bị bùa mê thuốc lú. Và cuốn sách bị ném vào im lặng. Tưởng như không ai muốn nhìn mặt nó nữa và chỉ muốn quên đi rằng nó đã sinh ra ở trên đời. Không ai nhắc tới cũng như một thời gian dài, giá ai có muốn mua cũng không tìm được sách.<br /><br />Dù không thể gọi là gặp nạn như những Phạm Tiến Duật, Lưu Quang Vũ những năm chiến tranh, song khoảng trên dưới chục năm ấy, giữa những đợt đi nước ngoài để gặp gỡ bạn đọc và dự các cuộc hội thảo, tác giả chỉ có cách im lặng làm chân biên tập một tờ báo, thỉnh thoảng cho in vài bài phiếm luận làng nhàng. <br /><br />Giá kể thời trước thì cứ thế cuốn sách sẽ chìm dần trong bóng tối và chỉ cần bị ném ra khỏi các thư viện nữa thôi là có thể coi như bị xóa sổ hoàn toàn.<br /><br />Cái may của Nỗi buồn chiến tranh là ở chỗ nó ra đời vào thời hội nhập. Nhiều khách phương xa đặt chân đến đây với cuốn truyện của Bảo Ninh. Trong chừng mực mà ở nhiều nơi, hai tiếng Việt Nam mới có nghĩa một cuộc chiến tranh - nó đã trở thành người đại sứ duy nhất của văn học mời gọi người ta đến với sứ sở này để khám phá tiếp.<br /><br />Khoảng chênh lệch giữa sự đánh giá ở trong nước và khi ra nước ngoài ngày càng hiện lên như một trớ trêu vô lý .“Cái kim trong bọc mãi cũng lòi ra“. Đến 2003 thì các bản tiếng Việt mới lục tục được in lại; lúc đầu rụt rè dưới cái tên Thân phận tình yêu, sau chính thức là Nỗi buồn chiến tranh. Và một cơn sốt nhẹ đã xảy ra, đã kéo dài như trên đây tôi vừa nói, dù chỉ là “áo gấm đi đêm“ người bán sách biết với người mua, chứ báo chí ít khi nhắc nhở. <br /><br />Có thể nhìn vào cuốn sách này để thấy nhiều nỗi niềm của văn chương mười lăm năm qua. Những mệt mỏi sau một cuộc chiến tranh quá lâu. Những ngần ngại khó khăn trong việc đi tìm sự thực. Sự chênh lệch quá rõ giữa ý muốn và thực tế. Đã có những háo hức đi tìm tài năng để rồi lại ngần ngại khi phải đối diện với tài năng thực thụ, lại thấy e ngại. Tôi biết có những đồng đội của chúng tôi hôm qua muốn chìa tay ra với Nỗi buồn chiến tranh lắm mà không sao làm nổi. Bởi công nhận cuốn sách của Bảo Ninh tức là phủ nhận quá khứ của chính mình, mồ hôi nước mắt của chính mình và bao người khác những năm chiến tranh. Oái oăm là ở chỗ đó!<br /><br />Nhưng thử nghĩ lại xem, hai chục năm nay, bao thay đổi đã đến với đời sống chúng ta và trong đầu óc chúng ta! Bao giá trị hôm qua tưởng không thể chấp nhận, hôm nay được ngợi ca trọng vọng. Quan niệm về tương lai khác đi, quan niệm về hiện tại khác đi, thì làm sao quan niệm về quá khứ cứ giữ mãi như cũ?! <br /><br />Điều quan trọng nhất: nay là lúc ta biết rằng ta không thể sống một mình mà sẽ tồn tại trong khuôn khổ và theo những chuẩn mực chung của cộng đồng thế giới. Nhà văn Nguyễn Quang Thiều đã điểm trúng huyệt của vấn đề khi viết trong TT&VH số ra 28-10-06: “Nỗi buồn chiến tranh đã chạm vào mẫu số chung của nhân loại - đó là câu chuyện của thân phận của mất mát của tình yêu và chiến tranh…Chỉ có những tác phẩm như vậy mới thực sự được đón nhận và sẻ chia”. <br /><br />Với sự giúp đỡ của bạn bè, cái ta nhận được ở đây không gì khác lại là cái mà chúng ta đã làm ra nhưng quên lãng. Ta được làm giàu thêm bằng chính sản phẩm của giờ phút xuất thần của mình. Đứa con lưu lạc đã trở về trong vòng tay xã hội. Sự phục hồi của Nỗi buồn chiến tranh biết đâu chẳng mở đường cho nhiều tác phẩm viết về chiến tranh theo một kiểu mới đang được âm thầm chuẩn bị?!<br /><br />Nguồn: VƯƠNG TRÍ NHÀN <br />Báo Thể thao và Văn hóathuykuehttp://www.blogger.com/profile/11377510706382381616noreply@blogger.comtag:blogger.com,1999:blog-2791392219377915741.post-26214491066932829842009-01-13T20:17:00.000-08:002009-01-13T20:27:04.462-08:00một thị trường sôi động( Chung quanh các xuất bản phẩm dành <br /> cho thiếu nhi hôm nay)<br /><br /><br /> Giả sử một người nào đó sau 15 năm đi xa trở về có dịp dẫn một em nhỏ đi mua sách , người ấy hẳn sẽ xiết bao kinh ngạc . Dường như một phép màu nào đã đến để làm thay đổi tất cả . <br /><br />Tràn ngập sách lạ <br /> Giữa một đứa trẻ bảy tám tuổi vào khoảng những năm từ 1985 về trước với đứa trẻ bảy tám tuổi vào năm 2000 có một khoảng cách rõ rệt , ít ra là bộ Dorémon . Một nhận xét như thế không phải hoàn toàn hàm hồ . Kể ra , từ đầu những năm 80 , trẻ ở các thành phố không chỉ còn đọc những cuốn mà cha anh chúng đã đọc như Vừ A Dính (Tô Hoài ), Lá cờ thêu sáu chữ vàng ( Nguyễn Huy Tưởng ) ,Đội du kích thiếu niên Đình Bảng ( Xuân Sách ) hoặc như Cuộc phiêu lưu của Mít đặc và Biết tuốt , Vichia Maléev ở nhà và ở trường ... mà đã bắt đầu làm quen với Chuyện loài vật của Séton Tomson ,Nanh trắng của J. London và trên TV đã bắt đầu chiếu bộ phim Hãy đợi đấy của điện ảnh xô viết phỏng theo lối làm của phim hoạt hình phương Tây loại Tom & Jerry. Thế nhưng cho tới 1985 thực đơn mà trẻ có vẫn sơ sài lắm , nếu so sánh thời ấy với thời nay thì thật chả khác đặt bữa cơm dưa cà nơi thôn dã với một bữa cơm bụi người ta thết nhau trên đường phố Hà Nội . Truyện của những tác giả lớn của một hai thế kỷ gần đây như Andersen , Grim , Mark Twen , H . Malot , .. lúc nào cũng sẵn , sách ra kích cỡ đủ kiểu . Rồi những tác phẩm vừa in ráo mực ở nước ngoài nay cũng được dịch in rất sớm để có mặt ngay trên giá sách các hiệu sách lớn cũng như các sạp báo . Cả rừng ấn phẩm vây quanh trẻ mà trùng trùng điệp điệp là các loại truyện tranh . Giờ đây lục cặp trẻ con , thả nào người ta cũng bắt gặp một tập truyện tranh nhàu nát , còn như mấy tiếng Doremon đã quá phổ biến khiến không ai phải thắc mắc . Sau Doremon đến Conan , Pokemon, Xì trum , Tin Tin rồi cả hậu Tin Tin nữa . Giống như các khu vực đồ chơi , mỹ phẩm hoặc điện ảnh ... , thị trường ấn phẩm dành cho thiếu nhi ở ta có vẻ như đã tự khác đi rất nhiều để trở nên giống như tình hình thường thấy ở nhiều nước khác ( trước tiên là trong khu vực các nước đang phát triển ) .<br /><br />Nhịp sống và cách nhìn thế giới <br /> Không sao nói hết những thay đổi mà những bộ tranh truyện nhiều tập như Dorémon và những truyện tranh hiện đại mang lại cho bạn đọc nhỏ tuổi . ở đâu cũng thấy trẻ đọc chúng . Tại sao chúng có thể có sức lôi cuốn mạnh mẽ đến thế ? Nói cho to tát ra thì loại sách này có một cách riêng trong việc hình dung ra thế giới . Hãy thử so sánh thì biết . .. Muốn hay không muốn thì thế giới trong các tác tác phẩm cũ cũng là tĩnh lặng , êm đềm , ổn định . Tuổi thơ lúc ấy là đồng nghĩa với non dại . Cái phần được ca ngợi ca nhiều ở đứa trẻ cũng là bài học rút ra qua câu chuyện là sự ngoan ngoãn vâng lời chăm chỉ . Cứ yên tâm sống rồi cuộc đời sẽ diễn ra như các trang sách đã mô tả . Ngược lại , hiện ra trước mắt nhân vật trong các xuất bản phẩm hiện đại là một thế giới với đầy tai biến và bất trắc . Cuộc sống rút lại là một cuộc phiêu lưu .Trên đường đời người ta luôn luôn gặp những va vấp trở ngại và mỗi cá nhân phải biết gắng gỏi để tự khẳng định . Một thế giới giàu chất văn xuôi đã thay thế cho thế giới giàu chất thơ hôm qua nhưng chính vì thế nó lại có sức hấp dẫn riêng của nó .Làm sao có thể giải thích sự lôi cuốn của sách nếu không tính đến khả năng của chúng trong việc bám chắc vào đời sống hiện đại như chúng ta đang thấy ? <br /><br />Sự thích ứng dần dần <br /> Sự có mặt liên tiếp của những cuốn sách dịch như là tạo nên một cú hích .Cả quan niệm mới lẫn phương thức làm sách mới đã hình thành và chi phối người làm sách . Một ví dụ : hình như giờ đây người ta không làm ra những cuốn sách riêng lẻ . Mà đẻ ra được một nhân vật là nuôi cho nhân vật đó phiêu lưu qua mọi chặng đường kỳ lạ . Và nghĩ ra ý đồ gì , là thực hiện chúng qua hàng loạt tập sách dồn dập xuất trận . Ngay trong lĩnh vực làm sách trong nước , phương thức nói trên cũng đã có mặt . Trong khi các nhà xuất bản chuyên ngành khác trày trật trong việc hình thành nên các tủ sách với sự thống nhất về khuôn khổ và bìa sách thậm chí có đánh số cẩn thận để buộc độc giả phải mua trọn bộ ,thì các nhà Kim Đồng , Trẻ , Thanh niên ...tung ra hết xê-ri này đến xê-ri khác . Nhìn nhiều cuốn truyện cổ tích VN như Cây khế , Từ Thức... được in khổ to và đầy tranh minh hoạ , người ta ngạc nhiên như nhìn một người quen trong bộ y phục lạ .<br /> Cách làm các loại sách dịch và sách biên soạn như vậy thâm nhập vào cả giới sáng tác , mà hiện tượng Nguyễn Nhật ánh là một ví dụ sáng chói .Tuy chưa có ai tâm sự cởi mở nhưng hẳn trong thâm tâm cả những người viết nghiêm chỉnh cũng đã bắt đầu cảm thấy không thể viết như hôm qua được nữa . Có điều có phải bao giờ chúng ta cũng làm được những điều ta muốn làm đâu ! Thói quen là một cái gì mạnh lắm . Những cố gắng tự thay đổi đã có song hình như chưa đạt đến mức thuần thục . Thành thử đặt bên cạnh những cuốn sách nổi tiếng một thời như Dế mèn phiêu lưu ký , Cái thăng , Tảng sáng, Bí mật ở miếu Ba cô ,Tuổi thơ im lặng , Tuổi thơ dữ dội ...vẫn đang in lại đều đều thì có vẻ như những sáng tác in ra gần đây vẫn lờ mờ nhợt nhạt chưa thấy cuốn nào có được cái tầm vóc mà người ta chờ đợi . <br /><br />Một bảo đảm chắc chắn<br /> Cách nhìn của những người lớn tuổi , nói chung là dư luận xã hội , đối với lớp trẻ hôm nay ( ở đây muốn nói tới lớp thiếu niên nhi đồng ) , vốn không thuần nhất . Dù vậy có một điều chắc ai cũng phải công nhận : tuổi thơ là tuổi của sự nhạy cảm . Tuy không hẳn là tờ giấy trắng mà đã mang sẵn trong tiềm thức những mã di truyền trên phương diện tâm lý , song phải nhận ít ra là trên bề mặt ở chúng vẫn có gì tươi ,xốp , dễ thích ứng với cái mà người ta gọi là không khí thời đại . Trẻ bây giờ khác trước bởi hoàn cảnh sống nay đã khác trước khá nhiều . Trong sự hồn nhiên của mình , chúng không chỉ nắm bắt một cách tự nhiên cái đang xảy ra hôm nay mà còn như là đón trước được những gì sẽ có trong thời gian tới . Những phẩm chất manh nha ở chúng cũng chính là những phẩm chất thuộc về tương lai , một thứ tương lai vừa bất ngờ vừa đã được ngày hôm nay chuẩn bị . Có thể nói chính việc hình thành một lớp trẻ như vậy đã là những đơn đặt hàng liên tục buộc giới làm sách cho thiếu nhi có cách đáp ứng thích đáng như chúng ta đang thấy . Và cũng chính những bạn đọc nhỏ tuổi ấy là một bảo đảm chắc chắn cho sự bùng nổ của sách trong thời gian tới . Loại ấn phẩm này đang đóng vai trò một mũi đột phá trong nghề xuất bản . <br /><br />.thuykuehttp://www.blogger.com/profile/11377510706382381616noreply@blogger.comtag:blogger.com,1999:blog-2791392219377915741.post-39770992697958724022009-01-12T01:42:00.001-08:002009-01-12T01:42:31.393-08:00Nhân tố thúc đẩy một sự tái sinhThử phác hoạ sự tiếp nhận của văn hoá Việt Nam <br /> đối với văn hoá Pháp thế kỷ XX <br /><br /> <br /><br /> I<br /> Trước khi tiếp xúc với văn hoá Pháp,văn hoá VN nằm trong quỹ đạo của văn hoá Trung Hoa, hoặc nói như A. Toynbee, văn hoá VN lúc ấy là một loại vệ tinh của văn hoá Trung Hoa (1). Từ thế kỷ XX trở đi, văn hoá VN được xây dựng theo mô thức phương Tây để rồi gia nhập vào quỹ đạo của một nền văn hoá hiện đại. Hiện đại hoá ở Nhật Bản, Trung quốc, Việt Nam …cuối thế kỷ XI X đầu XX cùng có nghĩa là Âu hoá, mặc dầu mọi sự Âu hoá đều mang tính độc đáo của từng nước. Với việc tiếp xúc với văn hoá Pháp, trong thế kỷ XX, văn hoá VN có sự thay đổi trong mô thức ( pattern ), bởi vậy đây là một trong những ví dụ về tình trạng tiếp biến văn hoá ( acculturation ) với nghĩa đầy đủ của chữ này. Một số người thường chỉ dùng chữ giao lưu văn hoá Việt Pháp. Giao lưu có tính chất hai bên ảnh hưởng lẫn nhau. Riêng tôi cho rằng ảnh hưởng trở lại của văn hoá VN với văn hoá Pháp (cũng như sau này với văn hoá Nga ) là không đáng kể, bởi vậy dùng từ ảnh hưởng không nói hết được thực chất sự việc.<br /> <br /><br /> II<br /> Xã hội VN thời trung đại chưa phát triển đến trình độ điển hình như một số xã hội trung đại khác ở châu Á. Đô thị theo nghĩa chặt chẽ gần như chưa có. Các hình thức vật chất bảo đảm cho sự thống nhất quốc gia khá yếu ớt, kinh tế từng vùng có tính tự cấp tự túc, các hoạt động thông tin liên lạc trong xã hội như giao thông, bưu điện… còn rất sơ khai.<br /> Với sự có mặt của chính quyền thực dân ( = một công cụ của lịch sử ), xã hội VN như được làm từ đầu. Từ nay xã hội đó mới định hình thành một cơ chế tập trung, thống nhất và sang một trình độ mới về kinh tế.<br /> Sự hoàn thiện về văn hoá một điều chưa thể đặt ra trong thời trung đại, thì nay cũng đã được khởi động.<br /> Nói cách khác, theo sự cảm nhận của người viết bài này, văn hoá VN từ thế kỷ XIX về trước ở trong tình trạng chưa hoàn thành nó là những bước đầu của một quá trình phát triển, xanh,chưa chín, không còn là Trung Hoa nhưng cũng chưa tách mình khỏi Trung Hoa. <br /> Việc tiếp xúc với văn hoá Pháp đồng thời thúc đẩy văn hoá VN nhanh chóng trưởng thành với nghĩa tự biết về mình, để tự hoàn chỉnh và trở thành chính mình chỗ hay cũng như chỗ dở đều định hình và hiện ra rõ rệt. Đây là chỗ khác giữa quá trình tiếp nhận văn hoá phương Tây ở VN ( tức cũng là quá trình hiện đại hoá của văn hoá VN ) với những quá trình tương tự xảy ra ở Trung Hoa, Nhật Bản. Ở các xứ đó văn hoá đã định hình từ trước hiện đại hoá, nên công cuộc hiện đại hoá không có vai trò quá lớn như ở VN.<br /><br /> III <br /> Sự xây dựng nền văn hoá mới theo mẫu hình Tây phương ( mà đại diện là văn hoá Pháp ) được tiến hành chủ yếu trong nửa đầu thế kỷ XX với nhiều khó khăn. Vì đây là công việc được làm trong điều kiện chính quyền thực dân đang đóng vai trò điều khiển xã hội. Ý thức dân tộc của người Việt bị xúc phạm nên có sự chống đối. Công việc Âu hoá được hoàn thành với nhiều cực nhọc.<br /> Nếu muốn qua đây khái quát đặc điểm của người Việt trong việc tiếp nhận văn hoá nước ngoài thì các kết luận là một song đề mâu thuẫn.<br /> Một mặt, trên bình diện ý thức, cái mới được tiếp nhận dè dặt, thường có pha thêm chế giễu, không có cách nào khác thì con người đành phải chấp nhận cái mới ấy vậy. Lòng người còn hướng nhiều về quá khứ. Điều này được bộc lộ rõ trong văn học. Rất nhiều sáng tác ghi lại những đau khổ mà con người phải chịu trong một hoàn cảnh quá mới đối với họ (dòng văn học hiện thực trước 1945 ). <br /> Mặt khác, trong thực tế người Việt lại biết tiếp nhận cái mới một cách khôn ngoan nhanh nhạy. Thích ứng với hoàn cảnh là một phẩm chất tuyệt vời của con người xứ này và đó là một bảo đảm cho sự trường tồn của dân tộc.<br /> <br /><br /> IV <br /> Dù chỉ lo tách khỏi Trung Hoa về mặt địa giới cương vực ( còn văn hoá như trên đã nói, vẫn chấp nhận và học theo ), nhưng suốt thời trung đại, ý thức của người Việt về mình đã nẩy nở một cách mạnh mẽ, cái mình đây được đặt trong thế đối lập với kẻ khác.<br /> Nếu sử dụng một khái niệm văn hoá học là kẻ khác, thì kẻ khác với người Việt lúc ấy chỉ là Trung Hoa.<br /> Sang thời hiện đại ( từ đầu thế kỷ XX ), cùng với sự hình thành một ý niệm rộng lớn hơn về thế giới cái phần tự ý thức về bản thân, cũng tức là tự ý thức về văn hoá VN ( “ có một nền văn hoá VN “) cũng được nâng lên một trình độ mới. <br /> Được sự gợi ý của các nhà chuyên môn người Pháp, tiếp theo họ, theo sự chỉ đạo của họ, hoàn chỉnh công việc mà họ bắt đầu ---, người Việt thế kỷ XX bắt đầu làm những công việc mà dân tộc nào cũng phải làm trên con đường tự khẳng định và hoà nhập vào văn hoá thế giới.Việc phân định biên giới VN với các nước láng giềng, trước tiên là nước láng giềng phương bắc, vốn chưa được làm rành rọt rõ ràng trong suốt trường kỳ lịch sử thì nay được làm, và việc này quả đã có ý nghĩa tượng trưng.Trong văn hoá cũng vậy. Gia tài của ông cha được kiểm kê đầy đủ, những bộ sách viết về lịch sử VN trước kia đã có nay được làm lại. Bắt đầu có sự nghiên cứu theo phương pháp mới về lịch sử nói chung lịch sử văn học nói riêng ; những bộ ngữ pháp tiếng Việt được biên soạn. Rõ ràng ý thức dân tộc lúc này trở nên chín muồi hơn và nếu so với ý thức dân tộc hình thành từ thời trung đại thì có thể nhận là đã có sự biến chuyển về chất. Đồng thời một thứ ý thức dân chủ theo nghĩa hiện đại cũng nảy nở, khác hẳn thứ dân chủ làng xã vốn có từ trước. <br /><br /> V<br /> Cùng với những biến chuyển xảy ra trong xã hội kinh tế tài chính,điều kiện và phương thức sống… toàn bộ văn hoá VN cũng thay đổi bao gồm môi trường văn hoá thay đổi, bộ máy hoạt động văn hoá thay đổi và các chủ thể văn hoá cũng thay đổi. Bắt đầu có những người xem hoạt động văn hoá như một nghề kiếm sống ( một điều trước đây chưa từng có ).<br /> Trong nền văn hoá hiện đại, người Việt tuy chưa có được một nền khoa học kỹ thuật độc lập, song tư duy khoa học có tiến triển, đời sống lý tính và óc phê phán bắt đầu nảy nở, phong tục tập quán có nhiều cải biến cho hợp với khoa học.<br /> Thời trung đại, văn học VN nặng tính cách ước lệ, và bộ mặt thật của đời sống chỉ hiện lên mờ nhạt trong các sáng tác (ngay cả truyện biết bằng chữ nôm cũng lấy đề tài Trung quốc và tả phong cảnh Trung quốc ). Với phương pháp thực nghiệm học được ở Âu Tây cộng với sự phổ cập của ngôn ngữ,bắt đầu có nền văn học viết ngay về đời sống quanh mình. Âm nhạc hội hoạ sân khấu …từ nghiệp dư trở thành những bộ môn nghệ thuật độc lập. Bắt đầu nhiều khi chỉ là mô phỏng bắt chước văn hoá phương Tây nhưng rồi dần dần các nhà văn nghệ VN hiện đại đã có thể tự sáng tạo. Họ thường tìm cảm hứng sáng tác trong các bậc thày người Pháp, như cha ông họ trước đây được gợi ý từ các bậc thày Trung Hoa. <br /> Trong khi một nền văn học francophone ở VN đầu thế kỷ XX tuy đã ra đời ( ) song không thể phát triển bình thường và sau 1945 bị hoàn toàn quên lãng, thì nền văn học viết bằng tiếng mẹ đẻ và làm theo mẫu hình phương Tây lại đạt đến một đỉnh cao mà văn học dân tộc chưa bao giờ đạt tới. Mặc dầu còn mang nặng tính chất thuộc địa (đây là chỗ khác giữa văn hoá VN hiện đại với văn hoá một số nước khác cũng trong quá trình Âu hoá như văn hoá Trung Hoa hiện đại ) song nền văn hoá mới được xây dựng vẫn có một bản sắc riêng : không thể nói nền văn hoá VN trong giai đoạn này là một bộ phận của văn hoá Pháp. Mà ngược ý muốn của những người Pháp thực dân, nó vẫn là một sản phẩm chuyên nhất, độc đáo. Tuy vậy không thể không ghi nhận văn hoá Pháp đã ảnh hưởng lớn đến sự hình thành của văn hoá Việt Nam xu thế này có nhiều ý nghĩa tích cực và không thể đảo ngược. Đây là một ví dụ cho thấy sự tiếp biến văn hoá là một quá trình khách quan và có những kết quả nằm ngoài công cuộc xâm lược và cai trị. <br /><br /> VI<br /> Sự phát triển của nền văn hoá mới góp phần thúc đẩy quá trình đấu tranh của người Việt cho độc lập dân tộc. Có một sự thực liên quan đến các phong trào yêu nước ở Việt Nam : từ phong trào duy tân đến Việt Nam quốc dân đảng, đó là nếu trong hoạt động thực tiễn họ có nhiều dây dưa với các phong trào yêu nước của Trung quốc, thì về ý thức, lại hướng thẳng về các tư tưởng tiến bộ của phương Tây. Từ đầu những năm ba mươi với những công cụ mới nhất tiếp nhận được từ nước ngoài ( ý thức hệ Mác Lê-nin, việc thành lập Đảng Cộng sản, việc vận động quần chúng ), công cuộc chống ngoại xâm có những bước chuyển căn bản và giành được thắng lợi.<br /> Thế tức là không nên chỉ nói tới truyền thống ngàn năm và ý thức dân tộc khi bàn về những nhân tố đóng vai trò động cơ chủ đạo trong cách mạng và có loại hẳn vai trò của văn hoá Pháp trong những biến động lịch sử. Bởi đứng lùi ra để xem xét, đặt mọi vận động lịch sử vào cái mạch chung của văn hoá, hoàn toàn có thể nói người Việt làm Cách mạng với văn hoá Pháp đi kháng chiến chống Pháp với văn hoá Pháp ( nói cho đầy đủ là văn hoá Tây phương mà văn hoá Pháp là đại diện ). <br /> Nhìn trên bề mặt, trong nền văn hoá mới được xây dựng ở VN, văn hoá Pháp chỉ đóng một vai trò khiêm tốn, các hoạt động giao lưu có lúc gần như ngừng hẳn. Nhưng tận bề sâu, văn hoá Pháp vẫn có sức tác động, tầng lớp trí thức do nhà trường Pháp thuộc đào tạo vẫn đóng vai trò chủ chốt trong mọi quyết định của xã hội.<br /> Văn hoá Pháp cũng đóng vai trò một thứ trung gian tích cực để Việt Nam tiếp nhận những nền văn hoá mới như văn hoá Nga bắt đầu ồ ạt đến với Việt Nam từ cuối những năm năm mươi của thế kỷ XX. <br /> Cố nhiên từ cuối thế kỷ XX, phương Tây không phải chỉ có Pháp mà còn là và nhiều khi chủ yếu là Anh Mỹ. Tiếng Pháp lùi bước một cách vô vọng trước tiếng Anh. Nhưng văn hoá Pháp vẫn có mặt trong nhiều hoạt động văn hoá ; ví dụ trong kiến trúc, những kiểu nhà Pháp ngày nay vẫn được ưa chuộng,và nói chung, trong mỹ cảm, con người VN hiện đại vẫn thấy gần với người Pháp hơn cả. Nhiều người thường nhận xét trong những cảm nhận về đời sống giữa người Việt và người Pháp có nhiều nét chung ( và đó là công lao của văn hoá Pháp, một phần cũng là dấu ấn mà văn hoá Pháp để lại trong văn hoá VN ) --- song điều đó cần có một cuộc khảo sát tỉ mỉ mới xác định được chính xác.<br /><br /> VII<br /> Được đưa vào Việt Nam trong suốt tiến trình lịch sử, văn hoá Trung Hoa là một bộ phận hợp thành của văn hoá cổ truyền VN và đến nay, người Việt vẫn chưa có sự tính sổ rạch ròi những gì mà mình tiếp nhận được từ người láng giềng phương Bắc. Ngay trong thế kỷ XX, văn hoá VN cũng không thể từ bỏ hoàn toàn những ảnh hưởng muôn màu muôn vẻ của Trung Hoa. VN thường nhìn vào Trung Hoa để hành động. Chính sự tiếp nhận phương Tây của Trung Hoa đã là một tiền lệ có ý nghĩa quyết định mang lại cơ sở hợp lý cho sự Âu hoá ở VN.<br /> Trên nhiều phương diện, văn hoá Trung Hoa đã đóng vai trò trung gian để VN tiếp nhận phương Tây. Nhờ đọc loại sách người ta gọi là tân thư mà đầu thế kỷ này nhiều trí thức nho học trở thành trí thức Tây học. Thực tế là các cán bộ cách mạng về sau thường tiếp nhận Mác Lê nin qua các văn bản tiếng Hán, và theo cách giải thích của người Trung quốc. <br /> Cùng với văn hoá Nga, văn hoá Trung Hoa hiện đại là bộ phận thay thế khi văn hoá Pháp phai nhạt. Và mặc dầu có một giai đoạn ngắn, trên bình diện ý thức chung của xã hội, các ảnh hưởng Trung Hoa bị từ chối (1966-1976 ), nhưng đến hai thập kỷ cuối thế kỷ XX thì văn hoá Trung Hoa lại quay trở lại trên phạm vi rộng, ăn sâu đến mức trở thành một thứ sản phẩm đại chúng, và đây là điều mà văn hoá Pháp không làm được, mặc dầu nó đã cắm rễ sâu sắc và vĩnh viễn trở nên một yếu tố nội tại của văn hoá VN hiện đại. <br /> Chúng tôi nói thêm nhận xét này để đề nghị muốn hình dung và đánh giá chính xác sự tiếp nhận văn hoá Pháp ở VN, các công trình nghiên cứu về văn hoá VN hiện đại cần đi vào đối chiếu nó ( sự tiếp nhận văn hoá Pháp ),với sự tiếp nhận cũng của VN đối với văn hoá Trung Hoa. Cần có một bảng đối chiếu song song./.<br /><br />-------thuykuehttp://www.blogger.com/profile/11377510706382381616noreply@blogger.comtag:blogger.com,1999:blog-2791392219377915741.post-37809309175661407362009-01-12T01:18:00.000-08:002009-01-12T01:19:26.378-08:00Thu hẹp những cấm kỵ trong tự nhận thức( Đọc Người Trung quốc tự trào<br /> NXB Văn học,2002. )<br /> <br />1. Công bằng mà nói, phải nhận biếng nhác, dối trá,tham lợi, cầu an, nịnh nọt, trơ tráo, rồi cái gì cũng cười, cái gì cũng cho là không quan trọng...là những thứ tính chung của loài người, nhìn vào dân nước nào cũng thấy. Mà Người Trung quốc tự trào ( NTQTT ) lại chỉ là một cuốn sách mang tính cách phổ thông, có lẽ là đã đăng tải làm nhiều kỳ trên một tờ báo nào đó bằng Trung văn trước khi in sách. Bởi vậy sẽ là vô lý nếu đòi hỏi nó phải có những phát hiện ghê gớm liên quan đến những khuyết điểm của người Trung quốc (tên sách trong nguyên văn ). Đúng ra sự phân tích ở đây chỉ dừng lại ở chỗ làm cho người đọc thấy những mặt yếu kém trong dân tộc tính Trung Hoa và nói rõ chúng là phổ biến, là đang đầy rẫy trong cuộc sống chung quanh, từ đó giúp cho mọi người tỉnh táo nghiêm túc hơn trong việc nhìn mình cũng như đồng bào của mình. <br /> Tuy nhiên, theo tôi, NTQTT vẫn nổi lên giữa vô số sách vở đang được dịch in và bày bán rộng rãi, ấy là vì nó đã giới thiệu được một xu thế suy nghĩ chi phối xã hội và xem như một định hướng của công tác nghiên cứu văn hoá ở Trung quốc hiện nay.<br /> Thứ nhất, hãy nhìn vào những ví dụ, những bằng chứng mà các tác giả đưa ra để nói về từng thói xấu một. Nhiều chuyện trong lịch sử được nêu ra,chẳng hạn Khổng Tử cũng thèm làm quan, Khuất Nguyên cũng thèm được dùng, Lý Bạch Vương Duy cũng có lúc nhờ cậy người có quyền thế để tiến thân. Rồi Dương Quýnh nhà thơ đời Đường tính hay tị nạnh,rồi Quách Mạt Nhược nhà thơ hiện đại kiêu ngạo khinh đời.v..v.. Thoát khỏi khu vực cấm kỵ để cùng chung số phận với người bình thường, những nhân vật lớn lao lại trở nên những dẫn chứng sinh động cho việc hình dung ra những nét căn bản của quốc tính.<br /> Thứ hai, một điều quan trọng hơn là trong chừng mực nhất định,các tác tác giả bắt đầu tiến tới những khái quát tầm cỡ, một loại khái quát mà những ai muốn truy cầu sự thật một cách nghiêm túc không thể lảng tránh. Trong phần hay nhất của NTQTT là phần Nhân cách, người đọc được biết người Trung quốc không chỉ xu thời, cầu an, sẵn sàng hối lộ thần thánh hoặc rúc đầu vào cánh cam chịu trước cuộc đời bất công... mà còn “coi nhẹ trí thức văn hoá thù hằn tri thức văn hoá “. Đây nữa, “giảo hoạt là sự kết tinh thông minh tài trí của người Trung quốc, khuyết điểm lớn nhất của nó là đối lập chủ nghĩa lý tưởng với chủ nghĩa hành động, nó cười giễu mọi cố gắng của nhân loại...”. Những kết luận như vậy vượt qua phạm vi một số ý kiến về một dân tộc cụ thể mà trở thành gợi ý để con người ở các dân tộc khác cũng phải suy nghĩ khi có nhu cầu tự nhận thức. <br /> 2. ở nước nào cũng vậy, người dân thường cũng nghĩ đủ điều không hay ho về bản thân mình, có điều nói dăng dăng với nhau ở ngoài đường để cười giễu mình thì chẳng sao, nhưng thấy ai đó tính chuyện viết vào sách thì chính họ lại e ngại, cho rằng công khai hoá vậy là vạch áo cho người xem lưng hoặc ghê gớm hơn là “hạ nhục dân tộc” và bảo nhau càng ít đả động tới chuyện này càng tốt.<br /> Thế nhưng do nhu cầu thúc đẩy xã hội phồn vinh, rồi các dân tộc đều có trưởng thành dần trong việc nhìn nhận bản thân. Tôi không có tài liệu trong tay nhưng biết rằng ở nhiều nước loại sách người một nước tự cười mình tự nói ra cái xấu của mình một cách nghiêm túc, loại đó ngày càng nhiều. Chẵng những thế, người ta còn sưu tầm nghiên cứu và cho in ra cả những loại sách đại loại người Anh dưới con mắt người Pháp, hoặc dân Pháp theo cách nhìn của dân Đức v..v.. Những lời gọi là nói xấu ấy chẳng làm ai nản lòng, ngược lại chỉ giúp cho các dân tộc đẩy tới cái công việc thú vị là khám phá bản thân. Đi xa hơn người ta còn khái quát : một dân tộc không thể nên người nếu không qua giai đoạn tự nhận thức một cách khoa học,khách quan trong đó có chấp nhận cả đau xót xấu hổ.<br /> Với Trung Hoa, một dân tộc gần gũi với chúng ta và xưa vẫn được các cụ ta gọi là đồng văn đồng chủng thì sao ? Người dân nơi đây thừa lòng tự hào về tài làm người của mình. Đất nước được xem là trung tâm của thế giới. Xã hội được xây dựng theo hình ảnh của thiên cung. Văn minh thì được gọi là hoa với nghĩa là đẹp... Nhìn vào sách vở Trung quốc được dịch in ra tiếng Việt vài chục năm nay lâu nay ta chỉ biết vậy và bảo nhau vậy. <br /> Có biết đâu trong thực tế sách vở bên ấy từ lâu đã có hướng nghĩ khác và đã dội sang bên ta.<br /> Cuối năm 2001 báo Tiền phong chủ nhật ra ở Hà Nội vừa trích in Người Trung quốc xấu xí của Bá Dương, một tác phẩm mà cũng như truyện chưởng của Kim Dung vốn thuộc mạch suy nghĩ của Đài Bắc Hồng Kông và chỉ gần đây mới được in ở đại lục.Chúng ta cũng không nên ngại nhắc lại cái dẫn chững đã quá cổ điển là tạp văn Lỗ Tấn với điều kiện bổ sung thêm : một Lỗ Tấn như vậy chỉ hình thành khi có sự chuẩn bị không khí của cả một thời đại. Một người đồng thời với tác giả AQ là Lâm Ngữ Đường, ông này cũng thuộc loại nhìn con người Trung quốc một cách khách quan, giữa các trang sách đôi khi dừng lại tự hỏi không hiểu sao đồng bào mình vốn cao nhã thông minh mà có lúc lại ngớ ngẩn tầm thường đến kỳ cục. Khi viết về chất giảo hoạt khác thường của đồng bào mình, các tác giả Người Trung quốc tự trào đã phải dẫn Lâm Ngữ Đường là vì vậy.<br /> Một cuốn sách khác cùng một xu hướng cũng đã được dịch ra tiếng Việt nhưng bị làm hỏng, đó là Mặt dày tim đen của Lý Tôn Ngô (1879-1944 ). Nguyên là trước khi nước Trung Hoa của Mao Trạch Đông ra đời, xã hội Trung quốc thời Dân quốc đã đi khá xa trên con đường hiện đại hoá, kể cả trong tư duy. Nhằm bắt mạch quốc dân tính, Lý Tôn Ngô khởi xướng cả một quan niệm mệnh danh là Hậu hắc học, đại ý cho rằng anh hùng hào kiệt trong lịch sử Trung quốc nói chung không mặt dày thì tim đen. Lý Tôn Ngô có cái mạnh là ông không dừng lại ở những chi tiết đời sống quanh mình mà hướng cái nhìn vào lịch sử và ở đây ông cũng không chịu bất một hạn chế nào, cả những thánh nhân, triết gia, anh hùng cái thế cũng được ông mang ra khảo xét và đánh giá bằng những tiêu chuẩn nhân bản. <br /> Sở dĩ một cuốn sách như Người Trung quốc tự trào có thể được biên soạn, ấy là vì trước đó đã có những nhà nghiên cứu dày công sưu tầm và mở ra những hướng mới trong suy nghĩ về quốc dân tính Trung quốc.<br /> 3. Chuyện dân tộc tự trào mang ý nghĩa một bước đổi mới tư duy. Đứng ở góc độ mỹ học mà xét thì rõ là trong cách nhìn nhận có sự biến cải sắc thái, sự việc xưa nay vốn đặt trong màn sương khói thiêng liêng tức có tính huyền thoại, nay được đặt trong sự tiếp xúc suồng sã, nên ban đầu thường khó chấp nhận. Song nghĩ cho cùng đây là bước đi mọi dân tộc phải trải qua trên con đường lâu dài là hiện đại hoá và đặt mình trong cộng đồng nhân loại. Với ý nghĩa đó, có thể xem công việc các tác giả NTQTT là hết sức cần thiết : quá trình khai phá của những Lý Tôn Ngô,Lỗ Tấn, Lâm Ngữ Đường, Bá Dương.... phải tìm cách thâm nhập vào công chúng rộng rãi thì mới có cơ dựng tạo được những kết quả chắc chắn.thuykuehttp://www.blogger.com/profile/11377510706382381616noreply@blogger.comtag:blogger.com,1999:blog-2791392219377915741.post-3036747772055077412009-01-12T01:15:00.000-08:002009-01-12T01:17:21.305-08:00Hội nhập, Một thực tế không thể lảng tránh“Giao lưu quốc tế “, “tiếp nhận và học hỏi kinh nghiệm nước ngoài “ “ hội nhập “... chung quanh một vấn đề lớn như vậy, hiện đang có nhiều ý kiến khác nhau. Nhằm góp phần vào cuộc trao đổi chung, TT&VH đã có cuộc trò chuyện sau đây với các nhà phê bình văn học Lại Nguyên Ân và Vương Trí Nhàn.<br /><br /> Các ông có thể giải thích sự quan tâm của dư luận rộng rãi đối với vấn đề hội nhập ? <br /><br />Lại Nguyên Ân (L.N.A)<br /> Nhìn vào đời sống văn hoá hàng ngày, sự có mặt của cái gọi là hàng ngoại sản phẩm ngoại đã là hiện tượng bình thường. Trong khi mọi người xem phim và nghe băng đĩa mới nhập thì giới chuyên môn ngong ngóng chờ tin các giải thưởng quốc tế, hoặc truyền tay nhau đọc các loại sách dịch, vậy thì lúc nào chúng ta chẳng hội nhập ? Gần đây tình hình có vẻ “nóng “ hơn, căn bản là vì ngày càng dồn dập thêm nhiều sự kiện : một vài tác phẩm của mình được dịch ở nước nọ nước kia, người ta có bàn tán ; rồi chuyện năm nào cũng có người qua Thái Lan nhận giải thưởng văn học Đông Nam á ; rồi những cuộc hội thảo những lớp học, chuyện đi tham quan và tìm hiểu văn học nước ngoài, theo nhiều con đường khác nhau và dưới nhiều hình thức khác nhau. Trước kia là việc của một hai người, thì nay là việc của rất nhiều người, có sự quan tâm bàn tán thì cũng dễ hiểu. <br /> <br />Vương Trí Nhàn( V.T.N) <br />Trong chuyện này tôi có một kỷ niệm. Năm 1995, trong một bài phát biểu tại một cuộc hội thảo, sau đó có in trên báo Văn nghệ, tôi đã nêu vấn đề người làm văn chương ở ta cần bảo nhau lo hội nhập để tránh nguy cơ tụt hậu. Có lẽ hoàn cảnh lúc ấy khác, xã hội chưa có nhu cầu, nên có một số người không đồng tình, và nói chung là nhiều người không để ý. Còn dăm năm gần đây, đúng là có tình hình như anh Ân vừa nói, giao lưu quốc tế đang là suy nghĩ của mọi người, nên câu chuyện được mang ra bàn nhiều hơn. Một lý do nữa : khi sự sáng tác đang có phần bí, và nhu cầu đổi mới ngày một rõ rệt, thì cái việc mong muốn tìm tới một sự gợi ý từ đời sống văn học bên ngoài, qua đó khẳng định những tìm tòi của mình, lại càng dễ được chấp nhận. Hội nhập không chỉ là nhu cầu của hưởng thụ mà còn là nhu cầu của chính sự sáng tạo. <br /> Liệu có thể nói quá trình đang được tiến hành một cách có hiệu quả ?<br /><br /> L.N.A. <br /> Đâu có dễ vậy! Quan sát đời sống hàng ngày, có thể thấy ngay những nền nếp văn hoá mới, như các loại mốt hiện đại,rồi nhạc Jazz, ngày Valentin, rồi đơn giản là sinh nhật,đi pích-ních … thường do các bạn thanh niên khởi xướng. Trong sáng tác văn học cũng vậy, xưa nay những đổi mới thường cũng trông vào lớp trẻ. Mà lớp trẻ hôm nay lớn lên vào một hoàn cảnh quá bề bộn còn bản thân lại lại quá non, nên dù nôn nóng bắt kịp với thế giới, họ cũng không dễ làm ngay được.<br /> <br />V.T.N <br />Tình hình giờ đây rõ là khá hơn, nhưng lại đáng quan ngại theo hướng khác. Không phải cái gì người ta muốn là đã làm ngay được. Không có hiểu biết chắc chắn về văn hoá nước ngoài nên thường khi là nhập sai nhập bừa, cái đáng nhập không nhập, lại đi rước về toàn cái dở. Còn nhìn vào việc đổi mới công việc sáng tác, thì có một sự thật là nhiều người viết văn đang trong trạng thái lùng nhùng, vừa muốn hội nhập vừa ngại ngần, chỉ lo nếu hội nhập thì rồi liệu mình có viết được nữa, và có ai đọc mình nữa không. Lâu nay trì trệ nên giờ nghĩ tới thay đổi là e sợ. Bí quá liền xoay ra cù nhầy, bám vào chuyện bản sắc để níu kéo nhau lại.<br />Thế nhưng dẫu sao nỗi lo mất bản sắc vẫn là nỗi lo chính đáng.. <br /> <br /> V.T.N : <br />Để có thể giữ gìn bản sắc, trước tiên cần phải biết mặt mũi cái bản sắc ấy ra sao. Mà trong chuyện này, hình như chưa ai nói được một cách thuyết phục, ngược lại nhiều người thường khi là nói vơ vào,và toàn “thuyết “ những chuyện đâu đâu để yên lòng nhau.Thành thử nói ra có vẻ nghịch lý nhưng đúng vậy : chính qua tiếp xúc với người mà mà rồi ta mới biết mình hay ở chỗ nào dở ở chỗ nào. Qua người hiểu mình, qua hội nhập mà xác định được bản sắc, đấy là một lý do nữa buộc ta phải tính chuyện hội nhập. Còn đối lập hội nhập với giữ gìn bản sắc là một cách đối lập giả tạo.<br /> <br /> L.N.A <br />Đúng là chính cái chuỵện bản sắc ấy phải được quan niệm lại, và nếu như trong bản sắc có những cái dở thì phải loại bỏ, những cái “lô-can “ quá “bản địa “ quá cũng không nên và không thể đề cao. Vừa rồi Số đỏ được dịch in ở Mỹ và bản dịch được nhiều người khen. Nhân đó tôi nghĩ hình như trong việc đi ra với nước ngoài, ông Phụng có thuận lợi hơn, vì ông hướng về thế giới nhiều hơn các nhà văn khác.<br /> <br />V.T.N <br />Có phải anh còn muốn nói là có thể lấy việc một nhà văn khó khăn hay dễ dàng khi “đi “ ra nước ngoài ( tức là khả năng hội nhập đến đâu ) làm một trong những tiêu chuẩn chính để xem xét đánh giá xem thành tựu của người ấy ?<br /> <br /> L.N.A <br />Có lẽ là như vậy.<br /> Đang có những chuyện phiền lòng nảy sinh khi mở cửa : đó là các loại học đòi pha tạp trong ăn mặc cư xử nói năng viết lách.... Có cách nào để tránh được chăng ?<br /> <br /> V. T. N.<br />Thuở giao thời bao giờ chẳng lắm chuỵện nhố nhăng, chỉ cần giở thơ Tú Xương với văn Nguyễn Công Hoan ra là thấy ngay ; thậm chí ở đây còn có thể nói tới một thứ “ truyền thống “ cần từ bỏ : khi tiếp nhận văn hoá nước ngoài, ta thường chỉ học lỏm học mót và dễ học những cái xấu hơn cái tốt. Tuy nhiên, càng biết như vậy lại càng phải đặt vấn đề hội nhập một cách nghiêm chỉnh, tức là có sự nghiên cứu kỹ càng, có được sách lược chiến lược khôn ngoan, hợp lý, và thường xuyên biết vượt qua cái lầm lỡ nhất thời để chọn lấy cái tốt đẹp lâu dài. <br /> Triển vọng của cuộc hội nhập ra sao ? Trước mắt có những việc gì nên coi là cấp thiết cần lo ngay để quá trình này có thể tiến hành một cách tốt đẹp ?<br /> <br /> L.N.A <br /> Theo sự quan sát của tôi, trong đời sống sáng tác gần đây, có sự trở lại của một lớp nhà văn như Xuân Khánh, Châu Diên, Bùi Ngọc Tấn, Nguyễn Bản, Dương Tường và cả Bão Vũ nữa. Khác với một số nhà văn trẻ, họ là những người có một căn bản văn hoá chắc chắn, sớm được tiếp xúc với văn học nước ngoài. Nói như danh từ bây giờ tức là họ đã tính chuyện hội nhập sớm. Nên mặc dầu có một thời gian lận đận, cuối cùng họ cũng đạt được những đỉnh cao trong sáng tác và được xã hội thừa nhận. Qua đây tôi chỉ muốn nói hội nhập là việc lâu dài, người trong cuộc không nên quá sốt ruột, có đi khắc có đến. <br /> <br /> V.T.N<br /> Tôi xin trả lời vế thứ hai của câu hỏi. Lịch sử văn học dân tộc từng biết tới nhiều thành công và thất bại trong hội nhập, chẳng hạn việc tiếp nhận văn hoá Trung Hoa trong trường kỳ lịch sử hoặc việc hiện đại hoá theo mẫu hình văn hoá phương Tây nửa đầu thế kỷ XX. Trước mắt cần nghiên cứu kỹ những hiện tượng đó để chỉ ra chỗ hay chỗ dở, và khái quát lên thành những bài học cho ngày hôm nay. Mặt khác, lại cần có người bỏ công theo dõi nghiên cứu tình hình hội nhập ở các nước khác trên thế giới nhất là ở những nước tình hình có những nét gần gũi với ta để rút kinh nghiệm. Khi đã coi quá trình này là tất yếu thì tránh nhất là để cho tình hình nẩy nở tự phát, ngược lại, phải nỗ lực tính toán thế nào để làm việc đó một cách tối ưu.<br /> <br /> Đức Trung (thực hiện)thuykuehttp://www.blogger.com/profile/11377510706382381616noreply@blogger.comtag:blogger.com,1999:blog-2791392219377915741.post-27246994652139192862009-01-12T01:10:00.001-08:002009-01-12T01:14:27.406-08:00Câu chuyện hội nhập văn chươngHIỆN NAY TRÊN BÁO CHÍ CŨNG NHƯ TRONG CÂU CHUYỆN HÀNG NGÀY CỦA GIỚI CẦM BÚT, NHIỀU NGƯỜI HAY BÀN ĐẾN CHUYỆN “HỘI NHẬP “. ĐỂ GIÚP BẠN ĐỌC CÙNG TÌM HIỂU VẤN ĐỀ NÀY, CHÚNG TÔI Đà CÓ CUỘC TRAO ĐỔI SAU ĐÂY VỚI CÁC NHÀ VĂN NGUYÊN NGỌC, TRẦN ĐÌNH HIẾN, NGUYỄN VIỆT HÀ VÀ VƯƠNG TRÍ NHÀN.<br /><br /> Các ông có thể giải thích sự quan tâm của dư luận rộng rãi đối với vấn đề hội nhập ?Quá trình đó đang diễn ra như thế nào ?<br /> Trần Đình Hiến: Toàn cầu hoá kinh tế đang là xu thế thế giới. Mà kinh tế và văn hoá liên quan mật thiết với nhau, nên anh có muốn từ chối hội nhập về văn hoá cũng không được. <br /> <br /> Nguyên Ngọc: <br />Quan trọng hơn cả lúc này là thống nhất với nhau một quan niệm : hội nhập là tất yếu, thậm chí là sống còn. Bởi lẽ đang còn không ít người ngại hai chữ hội nhập, sợ hội nhập thì rất dễ mất cái gọi là “bản sắc”. <br /> <br /> Vương Trí Nhàn <br />Tôi xin nêu ra một chi tiết chứng minh cho nhận xét trên của anh Nguyên Ngọc : Năm 1995, trong một bài báo in trên Văn nghệ, tôi đã đặt vấn đề cần bảo nhau lo hội nhập để tránh nguy cơ tụt hậu của văn học. Lúc ấy, có một số người không đồng tình, còn nói chung là không mấy ai để ý. Dăm năm gần đây, hội nhập như đã trở thành chuyện mọi người cùng quan tâm. Nhưng tình hình đáng quan ngại theo hướng khác. Đó là nhiều người viết văn đang trong trạng thái lùng nhùng, vừa muốn hội nhập vừa ngại ngần, chỉ lo nếu hội nhập thì rồi liệu mình có viết được nữa, và có ai đọc mình nữa không. Lâu nay trì trệ nên giờ nghĩ tới thay đổi là e sợ. Bí quá liền xoay ra cù nhầy, bám vào chuyện bản sắc để níu kéo nhau lại.<br />Thế nhưng dẫu sao nỗi lo mất bản sắc vẫn là nỗi lo chính đáng. <br /><br />Nguyên Ngọc <br /> Đặc điểm của cơ thể sống là gì? Đó là sự trao đổi chất (métabolisme). Một cơ thể sống khác với một cơ thể chết là ở chỗ nó luôn trao đổi chất với môi trường chung quanh. Khi quá trình đó dừng lại, lập tức cái chết đến ngay. Cuộc sống nói chung là vậy, văn học càng vậy, vì nó là bộ phận tinh chất của sự sống của một xã hội. Cái ao đã rất tù và chẳng sạch sẽ gì, mà còn khư khư “ta về ta tắm ao ta”, thì chẳng thể có cuộc hội nhập nào cả. <br /> <br /> Nguyễn Việt Hà: <br />Đã là nhà văn thứ thiệt thì đương nhiên có bản sắc. Cái bản sắc đấy không phải hình thành trong ngày một ngày hai mà từ nhiều nguồn, tất cả những cái đó ăn sâu trong máu nhà văn. Nên không bao giờ có chuyện trong một hoàn cảnh nào đó nhà văn sẽ mất bản sắc. Càng hội nhập bản sắc càng rõ nét. <br /> <br /> Vương Trí Nhàn : <br /> Để có thể giữ gìn bản sắc, trước tiên cần phải biết mặt mũi cái bản sắc ấy ra sao. Mà trong chuyện này, hình như chưa ai nói được một cách thuyết phục, ngược lại nhiều người thường khi là nói vơ vào,và toàn “thuyết “ những chuyện đâu đâu để yên lòng nhau.Thành thử nói ra có vẻ nghịch lý nhưng đúng vậy : chính qua tiếp xúc với người mà mà rồi ta mới biết mình hay ở chỗ nào dở ở chỗ nào. Qua người hiểu mình, qua hội nhập mà xác định được bản sắc, đấy là một lý do nữa buộc ta phải tính chuyện hội nhập. Còn đối lập hội nhập với giữ gìn bản sắc là một cách đối lập giả tạo.<br /> Hẳn nhiều điều còn có thể nói tiếp, liên quan tới những quan niệm sai lầm nó khiến chúng ta không dám mạnh dạn và do đó chưa làm tốt công việc hội nhập ?<br /> <br /> Nguyên Ngọc :<br /> Đương nhiên hội nhập chỉ có nghĩa khi ta hiểu nó một cách khoa học.Chỉ hội nhập với cái giống mình, từ khước tất cả những gì khác mình, thì chẳng có nghĩa gì cả, chẳng để làm gì cả, chẳng sinh sôi ra được cái gì cả. Văn chương thế giới cả thế kỷ qua không hề đứng yên, trái lại đã và đang trải qua những chuyển động vũ bão, hiện đại, hậu hiện đại, rồi hậu hậu hiện đại (hay còn gọi là tân cổ điển) v.v... Hình như có quan niệm cho rằng tất cả những thứ đó đều là “sa đoạ”, hư hỏng, hay ít ra là “tầm phào” cả thôi, hội nhập vào đó chỉ tổ “mất mình”. Nghĩ như vậy thì chẳng khác gì cho rằng cả thiên hạ đều ngu cả, hư cả, chỉ duy nhất có ta là sáng suốt nhất, trong sạch nhất. Chỉ xin nhắc lại rằng lịch sử đã cho chúng ta một bài học còn lớn hơn số phận của văn học nhiều: cách đây hơn một trăm năm chúng ta đã mất nước chính vì một cách nghĩ “trong sạch”, “thà đui mà...” như vậy đấy. Trong thế giới này đui thì chết chứ chẳng giữ được đạo nào đâu!<br /> Một lý do chính đáng khác để nhiều người chân thành ngần ngại trước việc hội nhập là những chuyện phiền lòng : cùng với việc tràn lan phim thương mại, phim Sex hạng ba của Mỹ, châu  u, là các loại học đòi pha tạp trong ăn mặc cư xử nói năng viết lách...<br /> <br /> Vương Trí Nhàn<br /> Thuở giao thời bao giờ chẳng lắm chuỵện nhố nhăng, chỉ cần giở thơ Tú Xương với văn Nguyễn Công Hoan, Vũ Trọng Phụng là thấy ngay, thậm chí ở đây còn có thể nói tới một thứ “ truyền thống “ cần từ bỏ : khi tiếp nhận văn hoá nước ngoài, ta thường chỉ học lỏm học mót và dễ học những cái xấu hơn cái tốt. Tuy nhiên, càng biết như vậy lại càng phải đặt vấn đề hội nhập một cách nghiêm chỉnh, tức là có sự nghiên cứu kỹ càng, tìm được sách lược chiến lược khôn ngoan linh hoạt, và thường xuyên biết vượt qua cái lầm lỡ nhất thời để chọn lấy cái tốt đẹp. Trong chuyện này, có nhiều kinh nghiệm nước ngoài có thể học tập.<br /><br />Trần Đình Hiến<br /> Đúng vậy, bên Trung quốc ban đầu cũng có những người viết tiểu thuyết theo lối học vẹt, mô phỏng cách kể chuyện, mô phỏng kỹ thuật đơn thuần của phương Tây, và viết ra những tác phẩm ngô nghê. Đến khi biết tìm hiểu phương pháp quan sát cuộc sống, quan niệm của phương Tây về nhân sinh, về thế giới và tìm ra cách áp dụng vào Trung quốc, họ mới thành công. Mạc Ngôn là một trong số các nhà văn đó. Văn hoá Trung quốc là một nền văn hoá lớn, bản thân hoàn cảnh lịch sử và xã hội của họ cũng có những điểm rất gần gũi chúng ta. Nhưng cũng có những cái rất khác. Chúng ta không cần có một Mạc Ngôn phẩy, Mạc Ngôn thứ hai... mà điều văn học ta cần chính là những nhà văn biết cảm nhận thời cuộc của ta thấm thía như Mạc Ngôn cảm nhận hiện thực Trung quốc, để có được tác phẩm lớn.<br /> Đã rõ là công cuộc hội nhập trong văn học đang trong tình trạng lờ đờ uể oải. Vậy đâu là những việc cấp thiết cần làm để sớm có một cuộc bứt phá như nhiều người đang mong mỏi ? <br /> <br /> Nguyễn Việt Hà <br /> Muốn hội nhập thì phải cả hai chiều vào và ra. Đầu ra của ta tới quốc tế quá mỏng manh. Tại sao lại thế thì nhiều người đã sâu sắc phân tích. Tôi đồng ý với ai đó đã nói nôm na là sự hội nhập sẽ là có thật nếu văn học chúng ta giật vài giải thưởng có uy tín. Nobel thì mờ mịt quá. Nhưng gần gần Nobel thì cũng phấn khởi lắm rồi. Đến lúc đó bàn chuyện hội nhập chắc thiết thực hơn.Tôi muốn đặt sứ mạng đưa văn chương sánh vai các cường quốc năm châu vào tài năng và công phu tự đột phá của các nhà văn.<br /> <br /> Nguyên Ngọc <br /> Ngoại ngữ là một trong những điều kiện thiết yếu nhất để người viết văn ở ta có thể tiếp nhận được tinh hoa của thế giới, cũng như có thể đi ra thế giới. Phải nói thật điều này: thế hệ các nhà văn đang cầm bút của chúng ta hiện nay là thế hệ kém ngoại ngữ nhất trong lịch sử văn học dân tộc ! Nền dịch thuật lại đang lộn xộn, đang bị thả rông mặc xác cho thị trường đánh phá tơi bời. Các nhà văn trẻ phải tự cứu lấy mình đi, và một trong những cách tự cứu quan trọng nhất là ra sức học thật giỏi ngoại ngữ, để ít ra biết được rằng trên thế giới người ta đang thật sự làm gì, và mình thì đang đứng ở đâu. Biết mình, biết người... Nếu không thì thật là vô vọng. <br /> <br /> Khánh Phương và Đức Trung ( thực hiện )thuykuehttp://www.blogger.com/profile/11377510706382381616noreply@blogger.comtag:blogger.com,1999:blog-2791392219377915741.post-41972498894502129912009-01-12T01:08:00.000-08:002009-01-12T01:09:05.218-08:00TRÔNG NGƯỜI LẠI NGHĨ ĐẾN TA1/ Từ Paris, hoạ sĩ Trần Trọng Vũ vừa có một nhận xét khái quát về tình trạng của hội hoạ VN : Những nhận xét ấy được hoạ sĩ Trịnh Cung hưởng ứng. Ông cắt nghĩa tại sao mình lai đồng tình với Trần Trọng Vũ qua bài trả lời phỏng vấn ngắn in trên TT&VH số ra 16-5-2003.<br /> Theo Trần Trọng Vũ và Trịnh Cung, chưa bao giờ tranhVN có mặt trong hệ thống các gallery chuyên nghiệp ; và người mua tranh VN thường chỉ là khách du lịch.<br /> Nói gần nói xa chẳng qua nói thật, cái nhận xét trên chỉ có một nghĩa đơn giản : chúng ta đang có một nền hội hoạ thuộc loại chầu rìa. Đại khái cũng giống như trong bóng đá, chỉ khác là trong bóng đá người ta có hệ thống xếp loại rõ ràng còn trong nghệ thuật thì chưa.<br /> Vậy văn học VN có thoát khỏi tình trạng đó không. Chúng ta ở vào chỗ nào của văn học thế giới ? Văn học VN ra nước ngoài được đón tiếp ra sao theo kiểu gì ? Những câu hỏi có tính chất liên hệ nẩy lên trong đầu óc. <br /> Nhân đây xin cung cấp một nguồn tư liệu : <br /> Trong những ngày từ 19 đến 21-12- 2002, cuộc gặp gỡ quốc tế lần thứ nhất những người dịch văn học VN đã được tổ chức tại Hà Nội và tháng 4- 2003 này một tập kỷ yếu của hội nghị đã được xuất bản. Trong tập kỷ yếu, bản báo cáo của ban tổ chức về tình hình văn học VN dịch ra các nước và lời phát biểu của một số đại biểu nước ngoài kể về tình hình giới thiệu văn học VN ở nước họ đã có dịp được in lại. Sẽ chẳng có gì mới nếu bảo rằng qua các báo cáo này có thể khảo sát nhiều điều thú vị. Và đây là một chi tiết tôi phải dừng lại kiểm tra : trong phần tác phảm văn học VN dịch ra tiếng Trung quốc, tôi thấy chỉ nói tới mấy cuốn văn học cổ điển cùng là những cuốn của những năm 60 70 như Người con gái Việt nam, Từ tuyến đầu Tổ quốc, Vỡ bờ ; tính riêng phần văn học VN từ sau 1975, chỉ thấy nói tới Ông cố vấn của Hữu Mai ( có chua rõ rõ in ở một nhà xuất bản chuyên về quân sự chứ không phải các nhà làm sách văn học ). Chắc nhiều người như tôi đọc đến đây tự hỏi : Chẳng nhẽ bạn đọc bên Trung quốc, chỉ chú ý đến bấy nhiêu tác phẩm của ta ? Hay là các bản báo cáo để sót ? Lưu ý thêm là như báo chí gần đây đã nói trên thị trường sách dịch ở VN đang có một sự bùng nổ sách dịch từ tiếng Trung quốc. Nếu tạm ví dịch vào như nhập khẩu mà dịch ra như xuất khẩu, thì chẳng nhẽ lại có tình hình nhập siêu nghiêm trọng đến vậy ? <br /> Còn như nếu các báo cáo đã nói đúng thì từ đây có thể nghĩ gì về cái cách xuất ngoại của văn học VN ? Liệu có nói được như bên hội hoạ mà Trần Trọng Vũ và Trịnh Cung đã nêu hay lại còn bi đát hơn một bực ? <br />2/ Cũng trong cái mạch so sánh để tìm ra cách cân đo đong đếm chính xác văn học Việt Nam hiện thời, còn có một bài báo nữa tôi muốn nhắc tới, đó là bài Văn học Trung quốc chinh phục thế giới, nguyên bản in trên Time, bản dịch do báo Lao động ở ta in trong số 9-2-2003. Bài báo cho thấy một sự thực đáng kinh ngạc : ở Trung quốc, ngành xuất bản nộp thuế cho nhà nước chỉ kém rượu và thuốc lá. Tôi nhận ra trong cái chi tiết tiền thuế này hai điều : người Trung quốc thật là ham đọc và giới làm sách đã đáp ứng được nhu cầu đó, ngành xuất bản ở họ đã trở thành một ngành công nghiệp thực sự. Tất nhiên ở ta thì tình hình ngược lại gần như 180 độ. Lại nữa không phải ngẫu nhiên trong bài viết trên có cái chữ đầy quyến rũ : chinh phục thế giới. Vấn đề không phải chỉ là có những tác giả Trung quốc in ra ở Anh ở Mỹ với số lượng 8 triệu bản, mà cái chính là “ý chí chinh phục thế giới của nền văn học ấy thì không ai có thể phủ nhận.”. Nói nôm na là các tác giả Trung quốc đủ tự tin để lao vào cuộc thách thức là buộc người ta phải nghe họ nói ( điều này thì thực tế sách dịch ở VN đã là một bằng chứng ). Còn ở ta theo chỗ tôi biết, nhiều nhà văn đang trong trạng thái khá mông lung. Nói cho đúng ra họ cũng mơ chuyện ấy lắm nhưng chỉ như cô gái rụt rè chờ đợi xem không biết bao giờ có người đến rước đi giúp, chứ không biết công phu chuẩn bị cho nó. Hai chữ chinh phục còn quá xa lạ. Mà đã chưa muốn thì bao giờ làm được ! <br /> Cũng trong cái mạch so sánh để tìm ra cách cân đo đong đếm chính xác văn học Việt Nam, tôi muốn trở lại với bài viết về văn học Trung quốc trên kia đã nhắc. Trong đầu đề bài báo ấy có cái chữ đầy quyến rũ : chinh phục thế giới và người viết đến câu cuối còn nhắc lại “ý chí chinh phục thế giới của nền văn học ấy thì không ai có thể phủ nhận.”. Nói nôm na là các tác giả Trung quốc đủ tự tin để lao vào cuộc thách thức là buộc người ta phải nghe họ nói ( điều này thì thực tế sách dịch ở VN đã là một bằng chứng ). Còn ở ta thì sao ? Ai muốn đối chiếu có thể tìm đọc bài viết Hoan hô các bác đi Tây in trên báo Tiền phong số ra 17-4. Theo cái cách mà bài báo miêu tả, nhiều người mình ( ở đây là các nhà văn ) ra nước ngoài thời nay cứ như nhà quê ra tỉnh. Nói nôm na là rúm tứ túc cả một lượt. Mang tiếng là hội nghị với hội thảo chứ ” biết gì mà nghị với chả thảo “ ! Chỉ chờ may ra có người thương tình nịnh vờ cho mấy câu thì ghi lòng tạc dạ để về doạ người trong nước ! <br /> Chẳng nhẽ đó lại là tư thế của những người đi chinh phục thế giới.<br /> Thế thì bao giờ của đi thay người cho được ? !thuykuehttp://www.blogger.com/profile/11377510706382381616noreply@blogger.comtag:blogger.com,1999:blog-2791392219377915741.post-83677948268032317262009-01-12T01:07:00.001-08:002009-01-12T01:07:53.924-08:00CHUNG QUANH CÂU CHUYỆN XUẤT NGOẠI CỦA VĂN CHƯƠNG VIỆT NAMThời buổi này ai mà chẳng muốn có dịp đi ra nước ngoài để tìm hiểu thêm về thế giới, nữa là những người viết văn. Và nếu đó không phải là những chuyến du lịch hoặc đi theo sự phân công phân nhiệm của cấp trên, mà là cái sự đi ra đầy vinh quang, tức đi bằng tác phẩm của mình, thì với mỗi người cầm bút, lại là điều đáng tự hào. Có thể đọc ra niềm mong mỏi nói trên của các nhà văn ta qua những lời họ bàn bạc với nhau chung quanh chuyện đưa văn chương ra với bè bạn xứ người. Tin tức truyền đi rôm rả lắm.Trong đám những người nặng lòng với văn chương, thỉnh thoảng vẫn nghe có lời đồn thổi đại ý rằng ở Pháp ở Mỹ rồi ở Thuỵ Điển và Đan Mạch,ở Nhật Bản cũng như bên Hàn quốc, thơ của mình, truyện của mình, người ta cũng dịch vô khối.<br /> Sở dĩ bảo là chuyện đồn thổi, bởi nó chỉ có một li một leo sự thực : văn chương ta dịch thì cũng có được dịch ; nhưng không phải là vô khối đâu, mà chỉ đơn sơ, lót đót, lẻ tẻ, vụn vặt, nói chung là ít lắm, ít đến mức nếu đứng ở toàn cục mà xét phải thấy xấu hổ.<br /> Mới đây, sau khi đi nhận giải văn học Asean hàng năm, nhà thơ Bằng Việt than thở đại ý ngay trong khu vực cũng chẳng ai biết gì về ta cả. Hoặc trên báo Văn nghệ, một thành viên của đoàn nhà văn đi thăm Trung quốc kể rằng khi hỏi xem các bạn có biết gì về văn học Việt nam, thì thấy họ ngớ ra một lúc sau mãi mới nhớ đến một cái tên, đó là cuốn Từ tuyến đầu Tổ quốc. Đối với khu vực Âu Mỹ, tình hình có khá hơn một chút, song nếu đặt nó trong sự bùng nổ dịch thuật ở đó thì phải nói văn học ta chưa có chỗ đứng, chưa thành mặt hàng, chưa ra tấm ra món nào hết. <br /> Vậy thì nên nhìn nhận hiện tượng này như thế nào ? Những cách bắt bệnh bốc thuốc tức là cách giải thích đang được lan truyền hiện nay đã thực hợp lý chưa ?<br /> Xin được bắt đầu bằng một chuyện bên kinh tế.<br /> Đọc báo cũng như xem ti-vi, nhiều người hẳn nhớ gần đây, các ngành xuất khẩu của ta thường gặp khó khăn, hàng không tiêu thụ được, có khi đã theo tàu vào cảng mà còn bị trả về.<br /> Khi kể lại việc này, những người viết bài trên báo thường không quên tỏ ý oán trách là thiên hạ người ta khắt khe, nếu không nói là thiếu thiện ý, họ chỉ thích đặt ra cho lắm các loại rào cản, cốt để hạn chế việc làm hàng xuất khẩu của Việt Nam. <br /> Trong khi đó chỉ cần nghe kỹ đầu đuôi câu chuyện thì người không am hiểu gì về kinh tế cũng có thể đoán ra : sở dĩ thiên hạ họ không mua hàng ta, nguyên nhân chỉ là vì các mặt hàng ấy không bảo đảm yêu cầu mà họ đặt ra từ trước. Nếu lại biết thêm rằng những yêu cầu này người ta áp dụng không chỉ với Việt Nam mà với mọi loại hàng nhập khẩu nói chung thì có thể đoán những lời than phiền trên là vô căn cứ. Ta ít hiểu về việc người, nên nghĩ sai cho người. Giống như những đứa trẻ quen được chiều mà sinh làm nũng, ta muốn người ta thương cho phận nghèo hoặc kinh tế lạc hậu mà đặc cách chiếu cố, rồi không được thì đập chân đập tay hoặc thở dài oán trách.<br /> Trở lại với tình hình văn học. Khi cắt nghĩa hiện tượng văn học Việt nam ra nước ngoài còn khó khăn, nhiều người thường có xu hướng đổ thừa cho những nguyên nhân khách quan.Tại người làm đối ngoại của ta ít hiểu về văn học.Tại tiếng Việt khó quá. Tại chúng ta không khéo quan hệ với người, không giỏi tuyên truyền để cho người ta biết thêm về mình.<br /> Những cách cắt nghĩa loại này theo tôi, không phải là sai, song chỉ dừng lại ở những nguyên nhân bên ngoài, trong khi đó việc trước tiên cần làm là rà soát lại chất lượng sáng tác của ta, tìm thấy ở đó những nguyên nhân sâu xa của tình hình trì trệ.<br /> Thời còn chiến tranh hoặc sau đó ít năm, người ta có thể dịch ta ít nhiều vì lý do hữu nghị, dịch xong rồi để đấy không có ai đọc cũng vẫn cứ dịch tiếp. Nay thì hoàn cảnh đã khác. Nếu những của cải về tinh thần ta đưa sang không đáp ứng nhu cầu của bạn đọc, nói toàn những chuyện người ta không quan tâm, nhân vật xa lạ với họ, cách nghĩ của người trong sách ngớ ngẩn ẩm ương kỳ cục họ không hiểu nổi... thì những dịch giả nước ngoài dù có yêu mến ta đến mấy cũng “ chắp tay vái “. Vì họ biết có dịch ra, sách cũng không ai đọc và trước tiên là không ai mua. Về phần mình, nếu tỉnh táo, chúng ta cũng sẽ chẳng thích thú gì với cái việc đãi bôi đó cả.<br /> Có thể có người trách tôi nhìn mọi việc quá thực dụng, nhưng trong thế giới hiện đại, không thực dụng sao được ?! Cái lối thần bí hoá văn chương, thích thì thào khấn khứa, nào là ở đây rất nhiều bí mật, nào là có những cái hay không ai cắt nghĩa nổi, và có cái hay của dân tộc này dân tộc khác không hiểu nổi...., những cách nghĩ ấy đã quá lỗi thời, không thích hợp với công cuộc giao lưu văn hoá đang được tiến hành sôi nổi giữa các nước, các dân tộc. <br /> Tiên trách kỷ, hậu trách nhân, nhân những khó khăn trong xuất ngoại nay là lúc ta nên nhìn lại chính ta.<br /> Xét trong tâm lý : Có phải lâu nay ta chỉ tính tiếp nhận của người mà còn ít nghĩ tới chuyện đóng góp với người ? Có phải lâu nay chúng ta thường chỉ mong chờ ở họ một ít ban phát, một ít thương hại, mà chưa tính chuyện đóng góp với bạn bè, rộng hơn là chinh phục họ, buộc họ phải tiếp nhận ?<br /> Về chất lượng công việc : Có phải thứ văn chương chúng ta làm ra thường chỉ dừng lại ở trình độ một thứ hàng nội địa dùng tạm với nhau mà chưa bao giờ đạt chuẩn mực quốc tế ? Và do chỗ bằng lòng với tình trạng tiêu thụ nội địa như vậy, ta thường dễ dãi và không có yêu cầu cao về nhau, chỉ ra sức chiều chuộng tâng bốc nhau, mà bỏ qua cả những chuẩn mực cần thiết, đến mức thỉnh thoảng có người nước ngoài biết tiếng Việt nhìn vào, họ cũng ngán luôn ? <br /> Tôi chợt nhớ lại một câu chuyện : khoảng 1986-1989, tôi có dịp làm việc tại một nhà xuất bản của Liên xô cũ, ở đó có một người bạn Nga rất giỏi tiếng Việt, anh thường bảo tôi rằng tiếng Việt với anh là một thứ cần câu cơm. Biết vậy có một tờ báo mình in ngay ở bên Moskva ngỏ ý nhờ anh đảm nhận phần dịch để đưa tới bạn đọc Nga, nhưng nói thế nào anh cũng từ chối. Khi nghe tôi gặng hỏi sao không nhận, có phải vì tiền ít không thì anh bảo không phải, cái chính là các tác giả viết tiếng Việt kém quá, kém đến mức không thể thương được. Cứ dịch y như nguyên văn thì anh mang tiếng. Mà viết lại bằng tiếng Nga thì quá tốn công anh không muốn. <br /> Cái căn bệnh” không thể thương được “ nói ở đây, nếu tôi không nhầm,đến nay càng bùng phát, lan ra không chỉ trên mặt báo mà trong cả các tập truyện ngắn truyện dài, và chỉ nội một lý do đó thôi cũng đã làm cho cái ngày văn chương ta đến với bạn bè xứ người còn xa lăng lắc./.thuykuehttp://www.blogger.com/profile/11377510706382381616noreply@blogger.comtag:blogger.com,1999:blog-2791392219377915741.post-25709097225680361572009-01-12T00:55:00.000-08:002009-01-12T00:56:10.527-08:00TẠI SAO NGƯỜI MÌNH KÉM NGOẠI NGỮý thức và thói quen <br /> làm bạn với người nước ngoài <br /> quyết định tất cả <br /> <br /><br /> tiền lệ từng có <br /> Từ chiến tranh trở về , những người viết văn thuộc lớp chống Mỹ chúng tôi lòng đầy háo hức .Trong số những việc liên quan tới việc lập nghiệp , có việc học ngoại ngữ …Ồ , cái đó cần lắm chứ , phải lo học , phải đi quốc tế , phải trở thành những trí thức thật đàng hoàng – nhiều người gặp nhau ở ý nghĩ ấy. Nhưng chẳng bao lâu , không ai bảo ai mà đều ngấm ngầm nhận ra một sự thực: Học khó quá . Hình như kiến thức nó cố trốn chạy khỏi mình. Như trong chuyện ngoại ngữ , dù có kiên trì đến mấy , học cũng không vào . Nhà văn nọ, có lần, sau khi tuyên bố hùng hồn là mình học tiến bộ lắm , xoè ra cho mọi người thấy một quyển sách tiếng Anh mới mua được ở một hiệu sách cũ . Chung quanh nhìn kỹ , thì ra đó là một cuốn sách tiếng Pháp . Dĩ nhiên về sau , cái sự gọi là quyết tâm kia có giảm . Có thương nhau thì bảo nhau lo viết ngay đi ; chứ còn việc học , mà nhất là việc đọc sách và xì xồ với nhau mấy câu bằng các thứ tiếng xa lạ -- một hai năm sau , mọi người nói nhỏ với nhau -- sao thấy nó phù phiếm quá (!).<br /><br />và những nguyên nhân tương tự <br /> Những kỷ niệm trên lập tức trở lại trong tâm trí tôi , khi đọc một số bài báo gần đây than phiền về việc sinh viên kém ngoại ngữ và nhất là cái cách người ta giải thích về tình trạng bê bết đó. Dù là việc học đang bị các trường xem nhẹ và tổ chức rất kém , song nhìn rộng ra , phải thấy điều kiện học của các bạn trẻ bây giờ đã khá hơn trước rất nhiều . Lại càng không nên nghĩ đến chuyện ký tính , sức nhớ , khả năng thông minh của người mình … Vậy thì tại sao cái sự kém cỏi kia hiển nhiên đến mức người ta phải báo động (và trong thực tế còn thổi vào tai nhau những chuyện tệ hại hơn nhiều )? <br /> Nghĩ cho kỹ , tôi cho rằng phải nói tới những nguyên nhân tâm lý :<br /> Nhìn vào lớp nhà văn chống Mỹ vừa nói ở trên , trước tiên tôi nhớ tới hoàn cảnh mà bọn tôi lớn lên , trong đó có những chuyện mà ngày nay không ai tưởng tượng ra nổi . Có một hồi người Hà Nội được xác định là “ ta chỉ nói chuyện với chính ta “ . Đi đường thấy tây đầm hỏi đường không được chỉ . Nghĩ tới người nước ngoài là nghĩ chuyện phải cảnh giác . Xưa nay nghề dịch vốn đã èo uột , vậy mà hồi đó báo chí văn nghệ còn gần như cai hẳn cái mục được coi là rắc rối này . Vả chăng , muốn làm cũng chẳng có gì mà làm . Sách Anh Pháp không nhập , ngay sách Trung văn cũng không có , bên Bắc Kinh đang cách mạng văn hoá . Một số cuốn sách xô - viết loại như Chuyện núi đồi và thảo nguyên in xong bị phê phán kịch liệt và thu hồi .<br /> Quả thật trong một tình cảnh như thế , có ai còn bụng dạ nào mà nghĩ đến ngoại ngữ nữa . Điều đáng nói là lâu dần thành một thói quen, ngay cả khi những rào cản cụ thể hôm qua không còn , thì những rào cản trong tâm lý con người thì không phải bỗng chốc mà dỡ bỏ đi ngay. Nó đã ăn vào tư duy ,chi phối tình cảm và ý chí của nhiều thế hệ . Vì thế mới có tình trạng sống giữa sách vở ê hề , tài liệu chồng chất và gần như không chịu một hạn chế nào như hiện nay, người ta vẫn không thể có một sự giao lưu và tiếp nhận tốt như đáng lẽ phải có . <br /><br />từ mấy mẩu chuyện có liên quan<br /> tới một cách nhìn từ phía bên ngoài… <br /> Mới đây thôi, một nhà văn Mỹ là S . Sontag qua đời . Tôi nhớ những năm chiến tranh , bà này có qua Hà Nội , và nghe nói nhận xét về người mình hay lắm , mà bọn tôi không được giới thiệu . Thì may quá , có hôm đọc thấy một nhà nghiên cứu văn học người Việt đang sống ở Melbourne kể rằng S. Sontag từng nhận xét người Việt Nam ít có thói quen tư duy trên một phạm vi địa lý rộng .<br /> Đó cũng là cái ý mà một người Nhật gần đây có sống mấy năm liền ở Hà Nội nhận xét : Người Việt ít khi đặt mình vào địa vị của người khác để suy xét .<br /> Tôi cho rằng chính những đặc tính trên đây cản trở việc học ngoại ngữ của ta hiện nay . <br /> Nếu như câu chuyện trên đây còn hơi có vẻ xa xôi thì có những dẫn chứng gần gũi hơn : Hồi Phan Chu Trinh mới qua Nhật, ông có được gặp cả thủ tướng Nhật Bản lúc ấy mà phiên âm qua tiếng Hán Việt gọi là Đại Ôi . Câu đầu tiên mà Đại Ôi nói với Phan Chu Trinh : Tôi nghe nói người Việt Nam đã lâu , mà nay mới gặp , hoá ra người các ông ít đi nước ngoài thật . Tiếp đó , khi biết rằng người đối thoại với mình lúc ấy chưa biết tiếng Pháp, Đại Ôi tỏ vẻ ngạc nhiên : Sao lại thế , muốn đánh đuổi gì người ta cũng phải hiểu người ta đã , không học tiếng Pháp sao được ?<br /> <br /> …tới một sự so sánh nội bộ <br /> Những anh em lên Sapa về thường kể , không hiểu tại sao tuy chỉ tích luỹ theo kiểu học lỏm khách du lịch mà nhiều thanh niên dân tộc H’mong trên đó nói tiếng Anh rất giỏi , trong khi nhiều người Kinh mình học có bài bản hẳn hoi mà nói vẫn rất quê . <br /> Nhìn kỹ vào chuyện có vẻ ngược đời đó , vẫn trên cái mạch đi tìm những ảnh hưởng của văn hoá đối với việc học ngoại ngữ , tôi muốn nêu một giả thiết :<br /> Tuy không nói ra rành rọt , nhưng những thanh niên H’mong kia hiểu rằng ngoài cái thế giới mà họ đang sống , còn có thế giới rộng hơn, thế giới của người Kinh . Và muốn tồn tại họ phải hoà nhập với thế giới đó . Tức là ý thức về mình và kẻ khác của họ đã phát triển và nó ăn vào trong tâm thức họ , đời nọ truyền sang đời kia. Khi tiếp xúc với một thứ tiếng mới , họ có nhu cầu buộc mình cố bắt chước nói cho thật giống .<br /> Còn ngược lại , nhiều người vùng xuôi khi tiếp xúc với người nước ngoài , tuy ở ngay các đô thị lớn, song thường thiếu nghiêm túc , không coi là chuyện thiết yếu liên quan đến cuộc sống của mình . Sự xem thường đó là cả một thứ vô thức tập thể kéo dài và bền chắc , nó lưu cữu trong ta , và tha hồ tác oai tác quái .<br /> <br />một sự mệt mỏi …không nên có <br /> Tôi đang công tác ở một nhà xuất bản . Thỉnh thoảng , cơ quan tôi cũng có khách nước ngoài và khi tiếp khách, ông giám đốc không quên mời một số nhân viên cùng dự . Nhưng sau một ít lần háo hức , những ngày gần đây, phải thú thực tôi rất ngại . Phần thì tiếng tăm không biết . Phần thì , trong những buổi gặp đó , thường chúng tôi hiện ra vô duyên thảm hại . Đại khái muốn trò chuyện về văn chương thì phải hiểu văn chương nước người ta ra sao, muốn bàn về xuất bản phải hiểu tình hình xuất bản bên họ thế nào . Đằng này chúng tôi mù tịt . Một anh bạn tôi , đầu óc cũng rất tỉnh , là Vũ Quần Phương , kể : Nhiều cuộc gặp gỡ của các nhà văn ta với nhà văn nước ngoài bí chuyện trao đổi với thảo luận quá , rút lại chỉ còn nói tiếu lâm và bàn chuyện ăn uống , đại khái hỏi họ bên nước ông ăn thìa hay ăn đũa , rồi tán dần ra . <br /> Vài lần chầu rìa và ngồi nói tào lao như thế qua đi , giờ đây “nhỡ “ được gọi tiếp khách là tôi xin kiếu . Một số bạn bè cùng lứa cũng có tâm trạng như trên . Chúng tôi muốn các bạn trẻ biết cho chuyện này và đừng lặp lại . Dẫu sao , khi vào đời , một sinh viên cũng phải có được một ngoại ngữ . Đó là dấu hiệu để có thể nói rằng mình và thế hệ mình đã đi ra và làm bạn với thế giới . Mà cũng chính là phương tiện để đạt tới cái đích tự nhiên đó /.thuykuehttp://www.blogger.com/profile/11377510706382381616noreply@blogger.comtag:blogger.com,1999:blog-2791392219377915741.post-16293901180126456992009-01-12T00:13:00.000-08:002009-01-12T00:31:41.978-08:00Đi tìm một cách tiếp nhận ảnh hưởng nước ngoài Đặc trưng cho văn học Việt NamI<br /> Một hướng nghiên cứu gần đây bị coi nhẹ - Mấy câu chuyện cụ thể từ thực tế sáng tác . Thử bàn lại về cách sử dụng các thuật ngữ , đúng hơn là bàn về một nội dung cấp thiết cần nghiên cứu<br /> <br /> Mối quan hệ giữa văn học Việt Nam với các nền văn học khác từng được chú ý khảo sát trong nhiều công trình nghiên cứu . Sau đây là một vài ví dụ : <br /> -- Việt nam văn học sử yếu (1943) của Dương Quảng Hàm -- cuốn sách đánh dấu một giai đoạn trong tư duy văn học sử của người Việt – mở đầu bằng một thiên (chương ) viết về văn chương bình dân , nhưng tiếp đó là thiên thứ hai ảnh hưởng của nước Tàu . So với thiên trên 15 trang , thiên này kéo dài tới 43 trang . Tiếp đó , những gì có liên quan tới thứ ảnh hưởng rất sâu đậm này còn được nhắc tới trong nhiều thiên tiếp theo . (1) <br />-- Việt Nam văn học tiền bán thế kỷ XX là một cuốn sách giáo khoa dùng trong nhà trường in ở Sài Gòn trước 1975. Bên cạnh phần chính văn 300 trang thì có hẳn một phần phụ lục 50 trang , dành để cung cấp những kiến thức về của nước ngoài ( cả Pháp lẫn Trung Hoa ) có ảnh hưởng tới văn học Việt Nam hiện đại .(2)<br />-- Chương mở đầu của cuốn Giáo trình lịch sử văn học Việt Nam tập VI (1945-1960 ) , ( do nhà nghiên cứu Huỳnh Lý viết ) khi đề cập tới Những nhân tố của sự phát triển văn học sau khi kể ra “ lực lượng sáng tác được giải phóng” , hoặc “di sản cũ được phát huy “ , đã nói ngay tới Sự giao lưu giữa văn học ta và các nền văn học tiên tiến thế giới . (3)<br /> Còn nhiều ví dụ khác chúng tôi xin miễn dẫn thêm ….<br /> Phải nhận rằng đây là một hướng nghiên cứu hợp lý . Trên phương diện phương pháp luận , như thế tức là nhà nghiên cứu đã biết nhìn hiện tượng trong mối quan hệ với các sự vật ,trong cái văn mạch mà nó tồn tại . Và thực tế văn học Việt nam là vậy . Các mối quan hệ , những ảnh hưởng ngoại nhập đã có mặt cùng với sự ra đời của nền văn học dân tộc và kéo dài suốt trường kỳ lịch sử . Nhìn từ góc độ địa văn hoá , các nhà lý luận thường nói có những nền văn hoá trung tâm và những nền văn hoá ở ngoại vi . Việt Nam nằm kẹt giữa hai nền văn hoá lớn là văn hoá Trung Hoa và văn hoá ấn Độ , không riêng chúng ta mà nhiều nền văn hoá khác hình thành và tồn tại trong tầm ảnh hưởng mà hai nền văn hoá đó lan toả (nói như một cách nói từng phổ biến một thời , tình trạng của Đông Nam á là phi Hoa phi ấn ). Mãi tới thế kỷ XX mới có một bước ngoặt , từ đây văn hoá phương Tây đối với văn hoá Việt Nam đóng vai trò một thứ mẫu hình , ta được nhào nặn và tự nhào nặn để hình thành theo cái mẫu đó . <br /> Đối với những nền văn hoá từng hình thành và tồn tại như vậy , thì lịch sử văn hoá trên một phương diện nào đó đồng thời có nghĩa lịch sử tiếp nhận và từ chối , học hỏi và cải biến , du nhập và xử lý lại , cũng tức là lịch sử dùng cái ngoại lai làm giàu cho mình và do đó trở thành chính mình . <br /> Việc khảo sát các ảnh hưởng ở đây không chỉ là thú vị mà còn có ý nghĩa quyết định để đi vào nhận diện , tìm ra bản chất , giải thích phương hướng phát triển một giai đoạn sáng tác , một hướng phát triển văn học nói chung .<br /> Và nó cũng là nhân tố phải tính tới khi muốn hiểu một cuộc tìm tòi , một nhà văn , thậm chí một cuốn sách . <br /> Trở lại với những quan sát của Huỳnh Lý . Như sự khái quát của ông thì tầm ảnh hưởng ở đây là sâu rộng với đầy đủ nghĩa của chữ sâu rộng đó ( “ Sự giao lưu … đem lại cho ta lý luận và kiểu mẫu sáng tác “ -- VTN nhấn mạnh ) . Đến lúc đi vào cụ thể , ông lại nói một cách khẳng định “ …đọc sách, người ta cảm thấy Tam Lý Loan , Đất vỡ hoang giúp cho Cái sân gạch , Bốn năm sau hình thành , và không có Tinh cầu thì cũng chưa chắc đã có Trước giờ nổ súng .” (4) <br /> Còn đây là kinh nghiệm riêng của người viết bài này : <br /> Mỗi lần nhắc đến những tìm tòi của các nhà văn Việt Nam những năm đầu kháng chiến chống Pháp, nhà văn Vũ Cao không quên nhắc tới chi tiết sau : Trong quá trình khai phá mở đường , tìm cách xây dựng nền văn học mới , một người như Nguyễn Đình Thi rất quan tâm tới các tiểu thuyết xô viết được dịch in bằng tiếng Pháp. Nhân cơ quan Vũ Cao có một số sách loại này ( như Cơn bão táp của Ehrenbourg ) , do các chiến sĩ Thủ đô chuyển lên , có thời gian Nguyễn Đình Thi vác ba lô , đến ăn dầm ở dề chỗ Vũ Cao , đọc bằng hết đống sách này mới thôi.<br /> Còn nhớ mấy năm Nguyễn Minh Châu ngồi ở căn phòng số 13 gác 2 , số 4 Lý nam Đế , viết Dấu chân người lính . Do cùng cơ quan , tôi không khỏi tò mò để ý , và tôi nhận thấy có một cuốn sách mà nhà văn này thường đọc , trở đi trở lại với nó , như là lấy nó để tựa hơi trong khi viết , đó là cuốn Tấc đất . Hồi ấy Tấc đất thuộc loại sách chỉ lưu hành hạn chế, nên tác giả Dấu chân người lính không tiện đọc công khai, mà chỉ giấu trong ngăn bàn . Nhưng tôi tin là cuốn tiểu thuyết của Baklanov (5)đã gợi ý cho nhiều suy nghĩ của Nguyễn Minh Châu khi xử lý đề tài chiến tranh . <br /> Vậy là công việc tiếp nhận văn học nước ngoài đã thường xuyên được tiến hành, nó là một trong những yếu tố chủ yếu đóng góp vào sự định hình của các tài năng văn học đã được công nhận .<br /> Tuy nhiên vào những thập niên cuối của thế kỷ XX và tiếp sau đó , có thể quan sát thấy hàng loạt hiện tượng đi ngược lại xu thế nghiên cứu nói trên . Các nhà văn giờ đây ít bàn tới các sáng tác của văn học nước ngoài dù số dịch phẩm in ra nhiều hơn bao giờ hết . Lịch sử văn học thu lại trong lịch sử sáng tác mà gần như bỏ qua lịch sử dịch thuật . Tính độc đáo -- ở đây hiểu là tính bản địa của văn học --- được nhấn mạnh . Và trong nghiên cứu văn hoá nói chung cũng có tình trạng như vậy . Trước kia , khi lược lại lich sử các ngành nghề như nghề dệt nghề in, các nhà nghiên cứu thường vẫn ghi rõ ta học được của người Tàu vào thời này này … Nay các sách nghiên cứu thường viết cho người ta hiểu đó là những nghề nội sinh , sự học hỏi nếu có cũng chỉ đến về sau (6) . Trong văn học điều đó càng rõ . Không ai bảo ai , song hình như có một thói quen đang hình thành là ngại nhắc tới các ảnh hưởng có thể có . Và nếu có bất đắc dĩ phải nói đến , thì chỉ nhắc đến một cách sơ sài , thu hẹp trong phạm vi ảnh hưởng tới một hai cuốn sách cụ thể .<br />Đọc lại Chủ nghĩa Mác và văn hoá Việt nam , chúng ta biết rằng ngay trong khói lửa của cuộc chiến tranh chống Pháp , khi rất cần đề cao tinh thần dân tộc , nhà mác-xít Trường Chinh vẫn nêu lên những khái quát “Ông cha ta , hàng chục thế kỷ học Tàu , viết Tàu, nghĩ theo cách Tàu , đến thời Pháp thuộc vẫn lai Tàu và lai Tây “ ; nói chung “ tinh hoa của dân tộc không phát huy được mấy và văn hoá thường là chắp nhặt lai văn hoá nước ngoài nhiều “ ( 7) Nhưng những nhận định dứt khoát như vậy ngày nay không mấy khi được trích dẫn , đối với nhà trường phổ thông thì lại càng không mấy khi nhắc lại . <br /> Chúng tôi cho rằng như thế là một công cụ hữu hiệu để tìm hiểu nền văn học trong qúa khứ (từ đó rút ra những bài học cho sự phát triển văn học hôm nay ) bị bỏ qua . Cũng giống như hiện tượng bên ngôn ngữ : do việc dạy ngoại ngữ kém nên học sinh của chúng ta đang rơi vào tình trạng không hiểu tiếng Việt , từ đó nói và viết tiếng Việt với nhiều sai sót . <br /> Nhân đây xin được phép đề xuất một ý kiến liên quan đến hướng nghiên cứu văn học :<br /> Nhịp với một trong những trào lưu đang phát triển thế giới , khoa nghiên cứu văn học ở ta gần đây bắt đầu nói nhiều tới văn học so sánh . Nhưng theo chúng tôi, trong hoàn cảnh Việt Nam hiện nay , khi mà sự hiểu biết về các nền văn học nước ngoài ở ta còn đơn sơ, thậm chí chính ta chưa hiểu về ta một cách sâu sắc , thì có thể mạnh dạn nói đây có vẻ như một món hàng xa xỉ . Cái cấp thiết hơn , cái mà chúng ta cần tập trung công sức nghiên cứu là mối quan hệ giữa văn học Việt Nam và văn học nước ngoài , những ảnh hưởng mà ta đẫ tiếp nhận . Phải sòng phẳng với nhau như vậy . Chứ cứ nói văn học so sánh rồi trong đó thỉnh thoảng lèo thêm vào vài bài nói về tiếp nhận ảnh hưởng ngoại lai là không nên . Ngay dùng từ giao lưu cũng còn là quá chung chung . Cái phần tác động ngược của văn học Việt nam tới các nền văn học chúng ta có tiếp xúc , nếu có , chắc chắn cũng không bao nhiêu. Mà ngược lại cái khâu chính của mối giao lưu này là việc tiếp nhận của chúng ta , đấy mới là cái đáng nói kỹ và cần nghiên cứu ngay. Xin nhắc lại khảo sát ảnh hưởng , xác định đầy đủ cái gì ta tiếp nhận là cách tốt nhất để ta hiểu về ta , và việc đó tuyệt nhiên không dẫn tới việc hạ thấp văn học dân tộc , như một số người lo ngại . <br /><br /><br /><br /> II <br /> Thử phác hoạ những đặc tính chung trong sự tiếp nhận văn học ở Việt Nam .Hai kiểu tiếp nhận tiêu biểu cho văn học hiện đại ; tiếp nhận trong thơ và tiếp nhận trong văn xuôi <br /> <br /> Theo dõi tình hình tiếp nhận văn hoá văn học nước ngoài ở ta nói chung , một nhà nghiên cứu muốn được khách quan chắc không khỏi có nhiều lúc lúng túng trước bao hiện tượng mâu thuẫn :<br /> Một mặt đúng là chúng ta luôn luôn giữ mối liên hệ với thế giới cũng như với khu vực; có thể nói trong bất cứ hoàn cảnh nào sự tiếp nhận diễn ra muôn hình muôn vẻ . <br /> Mặt khác trên đại thể lại thấy như là đời sống văn chương ở ta vẫn nặng về tính cách tự cấp tự túc , chưa hoà nhập với các nền văn học chung quanh . Luôn luôn người ta có thể cảm thấy cái không khí xa vắng của một nền văn học đứng riêng ra một góc .<br /> Hình như không sớm thì muộn trước sau những thay đổi trong văn chương thế giới rồi cũng đến với Việt Nam.<br /> Song nhìn vào cái mạch đi hàng ngày thì nói như dân gian, “ Nghệ An xô viết vẫn là Nghệ An “ , ta vẫn là ta chẳng có gì suy suyển cả . <br /> …. <br /> Những nhận xét kiểu đó cần được chi tiết hoá để bộc lộ cho hết mọi khía cạnh phức tạp của vấn đề . Nhất là cần chứng minh bằng nhiều sự khảo sát cụ thể . Dưới đây , chúng tôi thử dừng lại ở giai đoạn nửa đầu thế kỷ XX , ở một khâu cụ thể là thể loại văn học . Sở dĩ chúng tôi chọn cách khảo sát này là vì hai lẽ : <br /> 1/ Các tài liệu nghiên cứu gần đây đều đã chỉ rõ bước sang thời kỳ quen gọi là lịch sử hiện đại , sinh hoạt văn chương Việt Nam được tổ chức lại , để làm ra một nền văn học theo mẫu hình châu Âu . Bảo rằng văn học lúc này mang nặng tính cách thuộc địa cũng được , mà bảo rằng văn học tiến nhanh trên con đường hiện đại hoá cũng không có gì là sai trái . Đằng nào thì sự thực đã chứng tỏ những ảnh hưởng của văn học Pháp ở đây là quá lớn .<br /> 2/ Cuộc Âu hoá xảy ra trên tất cả các phương diện : môi trường văn học , chủ thể sáng tác , quan niệm về sáng tác và các mối quan hệ của sáng tác với đời sống .<br /> Thế nhưng không ở đâu người ta thấy rõ điều đó như trong lĩnh vực thể loại . Những biến động trên phương diện hình thức , tức là việc tiếp nhận các thể loại cụ thể ( những “ nhân vật chính “ của một nền văn học như cách nói của nhà nghiên cứu người Nga M. Bakktin ) luôn luôn là những bằng chứng rõ ràng , đằng sau nó là những sự thật hiển nhiên , không thể tuỳ tiện giải thích thế nào cũng được . <br /> Nói một cách tóm tắt thì bước vào thời kỳ hiện đại , trong văn học Việt nam sự thay đổi xảy ra ở cả hệ thống thể loại , lẫn trong từng thể tài cụ thể .<br /> Nhìn vào sự tiếp nhận trong thơ . Bởi lẽ trong thời kỳ trung đại thơ VN đã phát triển đến mức độ chín , thuần thục theo cái cách riêng của mình , nên sự tiếp nhận thơ Pháp thời kỳ đầu còn hết sức khó khăn . Trong một bài diễn thuyết ở Hội Trí Tri tháng 11-1921 mang tên Văn học nước Pháp , Phạm Quỳnh từng kể lại câu chuyện của mấy ông đồ . Lúc trò chuyện thân mật , có lúc các ông đã thảng thốt hỏi nhau : <br /> - ở Tây, họ cũng có văn chương sao?<br />- Có chứ văn chương họ hay lắm!<br />- Thế họ có thơ không? Thơ họ có vần có điệu, có hay bằng thơ “chữ ta" không?<br />Nghĩa là giữa hai bên không hề có ngôn ngữ chung một cách hiểu chung về thơ (8)<br /> Thế rồi , dưới áp lực của những thay đổi trong xã hội , dần dần cái cảm giác về một nền thơ cổ lỗ cũ kỹ cứ ám ảnh người ta không dứt . Những tiếng nói cải cách thơ rụt rè cất lên . Ban đầu phái cải cách còn yếu . Người ta phải đăng đàn diễn thuyết trao đổi cổ động cho cái mới . Người ta phải vận dụng lý luận ( dù vào những năm 20—30 của thế kỷ XX chưa ai biết gì về lý luận ) . Và nhất là người ta sáng tác , sáng tác một cách nghiêm túc, tạo nên những đỉnh cao không ai có thể phủ nhận . Cái mới cuối cùng đến như một đợt sóng triều , cuốn đi hết thơ cũ . <br /> Sự tiếp nhận thơ Pháp như vậy là khá đàng hoàng và sang trọng. Mọi chuyện mang ra công khai . Có sách lược . Có phát động. Có tổng kết . Phải nhận rằng đây là một cuộc tiếp nhận bài bản bậc nhất trong lịch sử tiếp nhận văn học nước ngoài ở ta , thậm chí có thể nói là hơi đột xuất , hơi lạ so với cách tiếp nhận ở Việt nam xưa nay . <br /> Bởi vì chỉ cần nhìn sang sự tiếp nhận trong văn xuôi , người ta sẽ thấy tình hình khác hẳn .<br /> ở đây , mọi chuyện xảy ra không ồn ào . Các nhà viết văn xuôi nói chung , viết tiểu thuyết nói riêng , không có tranh luận bàn bạc gì nhiều . Thói quen học lỏm của các cụ ta khi xưa sang xứ Tàu tìm thấy một sự tái tạo tự nhiên . Trong cuốn Theo dòng, nhà văn Thạch Lam có mấy bài bàn riêng về tiểu thuyết . Tới năm 1941 Vũ Bằng còn viết một loạt bài trên Trung bắc tân văn , sau in lại thành cuốn Khảo về tiểu thuyết (9) . Song đó là một vài trường hợp gần như ngoại lệ . Phổ biến hơn là cái cách “gục đầu “ mà viết , viết để làm đầy các trang báo . ( Lúc này báo chí đã trở thành một nét sinh hoạt mới ở các thành thị ).<br /> Sau nữa , sự bình lặng nói ở đây còn có nghĩa công việc được tiến hành một cách tự phát , không có sách lược chiến lược cụ thể khôn ngoan khéo léo . Do đó nếu nhiều lúc phong trào chung có phải đi đường vòng thì cũng là dễ hiểu .<br /> Lịch sử tiểu thuyết còn ghi nhận : thực ra ban đầu một xu hướng viết theo kiểu phương Tây như trường hợp cuốn Thày Lazaro phiền của Nguyễn Trọng Quản không được đánh giá cao và tiếp nối . Mà trong khoảng hai chục năm đầu của thế kỷ XX, loại tiểu thuyết phổ biến là tiểu thuyết viết theo lối Tàu . Trong Sài Gòn lục tỉnh , đó là trường hợp của những Hà hương phong nguyệt , Phan Yên ngoại sử , Hoàng Tố Oanh hàm oan; ở các tỉnh miền bắc , đó là trường hợp của Kim Anh lệ sử , ngay cái tên đã chứng tỏ chịu ảnh hưởng của cuốn tiểu thuyết Tàu Tuyết hồng lệ sử .<br /> Sự xa lạ của tư duy tiểu thuyết phương Tây xa lạ tới mức trên báo Nhật tân 1933 , nhà nghiên cứu Nguyễn Văn Ngọc bảo thẳng rằng “ truyện Tây hầu như là kẻ thù của dân này “ (10) <br /> Tố Tâm của Hoàng Ngọc Phách viết từ 1922 đến 1925 mới dám công bố, bên cạnh cái mới mẻ trong quan niệm về con người biết đâu chẳng một phần là do cái mới mẻ trong quan niệm về thể loại . <br /> Có điều , có thể nói với Tố Tâm đã có một bước ngoặt . Gần như không ai muốn quay về viết theo kiểu Tàu nữa .<br /> Con đường để người Việt đến với tư duy tiểu thuyết hiện đại vậy là khá quanh co , và không bừng lên sôi động như trong thơ . Dẫu sao, tư duy tiểu thuyết theo kiểu phương Tây ngày càng thắng thế . Cứ như là thể tài này được đẻ ra ngay trên đất Việt Nam , và từ lâu rồi ông cha ta đã viết như vậy . Nó lại cũng đã trở thành thứ thức ăn tinh thần không thể thiếu của bạn đọc .<br /> “Những trào lưu văn hoá phương Tây đã được chúng tôi tích nhập vào đất đai phong thổ của chúng tôi vào nền văn hoá của chúng tôi nhuần nhuyễn đến mức không phân biệt được nữa . Sự đồng hoá đạt đến mức tưởng như những trào lưu ấy vẫn có ở nước chúng tôi vậy “. (11)<br /> Naguib Mahfouz nhà văn được giải Nobel văn chương 1988 đã viết như vậy về quá trình du nhập của nhiều thể loại văn học phương Tây vào văn học Ai Cập . Câu nói đó cũng có thể áp dụng nguyên vẹn để nói về sự du nhập của tiểu thuyết vào Việt nam .<br /> Trước khi kết luận , xin phép được nêu lên hai nhận xét có tính chất những giả thiết để làm việc : <br /> Một là , mặc dầu nhìn vào cả quá trình hình thành thì tiểu thuyết Việt Nam thế kỷ XX gần như diễn lại các bước đi của lịch sử tiểu thuyết ở phương Tây , song cuối cùng cái đọng lại rõ nhất , tiện dụng với tư duy của người Việt nam hơn cả là tiểu thuyết Pháp thế kỷ XIX . Cố nhiên , chỉ giới hạn vào tiểu thuyết Pháp thế kỷ XIX thôi , người ta đã thấy một cái gì quá ngổn ngang bề bộn . Thói quen của người Việt khiến chúng ta không thể học theo những phong cách đồ sộ như V. Hugo hoặc Balzac hai nhân vật chính của văn học Pháp thế kỷ XIX . Những người mà chúng ta gần gũi hơn là Maupassant và Daudet . Nhà nghiên cứu Đặng Anh Đào từng dẫn lại và tỏ ra đồng tình với một nhận xét của Phan Ngọc , ông này nói rằng Nguyễn Công Hoan rõ ràng chịu ảnh hưởng của Alphonse Daudet (12). Điều thú vị ở đây là trong khi Nguyễn Công Hoan thiên về hài hước thì Daudet lại là tác giả của nhiều truyện ngắn có ý vị trữ tình . Nhưng chỗ gần nhau ở họ là cái cách sử dụng thể truyện ngắn . Xét theo tư duy thể loại thì nhận xét của Phan Ngọc là hoàn toàn có lý .<br /> Hai là , sau khi đã hình thành nên cho mình , đã chiếm lĩnh được một tư duy tiểu thuyết như vậy , thì các nhà văn Việt Nam nối tiếp nhau khai thác phần vốn liếng đã thu hoạch được để sử dụng . Người Việt nói chung không có thói quen tư duy các vấn đề của đời sống một cách trừu tượng ; mà nhà văn Việt Nam cũng vậy . Hình như với chúng ta vấn đề phát triển lý luận về tiểu thuyết rồi nâng lên thành bài bản và từ đó có đóng góp vào việc đổi mới làm giàu cho lý luận về tiểu thuyết là chuyện không nên đặt ra làm gì để mất thì giờ . Mà hãy cứ viết cứ viết cái đã ( tức là viết theo mẫu nước ngoài mà ta học lỏm được ) . Điều này giải thích tại sao đến cuối thế kỷ XX, chúng ta vẫn viết theo kiểu tiểu thuyết thế kỷ XIX .<br /> Trên phương diện tinh thần tư tưởng , nhiều nhà nghiên cứu lịch sử đã gặp nhau ở nhận xét rằng trong việc tiếp thu Nho giáo , Việt Nam thường dừng lại ở Tống nho và tìm cách đào đến cùng còn những sự phát triển tiếp theo của nho học như Minh nho, Thanh nho, ta không để ý . <br /> Hoặc đơn giản hơn như chuyện cái xe đạp . Người Việt không chế ra xe . ở ta cũng không thấy ai bận tâm tới việc cải tiến và nâng cao chất lượng của nó , sử dụng tốt nó trong những cuộc đua xe chẳng hạn . Nhưng khai thác xe đạp vào việc phục vụ đời sống hàng ngày thì có lẽ không ai bằng người Việt . Đến mức đôi quang gánh đầy dân tộc tính cũng phải nhường bước . Phương tiện phổ biến của dân hàng rong Hà Nội kể cả các cô bán hoa giờ đây là xe đạp . Chẳng đẹp thì đừng . Tiện dụng cái đã . <br /> Những triết lý ấy của người Việt cũng chi phối chúng ta trong việc tiếp nhận và vận dụng tiểu thuyết cho đến ngày hôm nay. Và rộng hơn cách tiếp nhận thể loại cũng mang những đặc trưng mà người ta có thể nhận ra khi quan sát sự tiếp nhận về mặt nội dung tư tưởng . <br /> Bởi vậy chúng tôi cho rằng hoàn toàn có thể nói tới một cách tiếp nhận các ảnh hưởng trong văn học đặc trưng cho người Việt , văn học Việt . Chúng ta chỉ cần tìm cho được , tức cần gọi tên nó cần nhận diện nó một cách chính xác . /. <br /> <br />Chú thích <br /> <br />(1) Tính theo bản in của Bộ Quốc gia giáo dục , Hà Nội 1951 <br />(2)Văn Hiệp xuất bản , Sài gòn , 1960 <br />(3) Bản in của NXB Giáo dục Hà Nội 1962 <br />(4) Sđd , tr. 16 ,17 . Tinh cầu nói ở đây còn có lúc được dịch là Ngôi sao , là tác phẩm của nhà văn xô viết E. Kazakevits<br />(5) Bản dịch của Lê Anh NXB Quân đội nhân dân , Hà Nội, 1962<br />(6) Từ điển văn hoá cổ truyền Việt nam , NXB Thế giới , Hà Nội, 1995 , phần viết về nghề in, nghề làm giấy .<br />(7) Trích theo Kỷ yếu Hội nghị Văn hoá toàn quốc lần thứ hai ,bản in ở Việt Bắc , tr. 133 <br />(8) Theo Thượng Chi văn tập tập II , Bộ quốc gia giáo dục Sài gòn, 1962, tr. 83 <br />(9) In lại trong Những lời bàn vể tiểu thuyết trong văn học Việt nam từ đầu thế kỷ XX tới 1945 , Vương Trí Nhàn biên soạn , NXB Hội nhà văn Hà Nội , bản in 2004 <br />(10) Sđd , tr 56<br />(11) Theo tạp chí Người đưa tin Unesco , bản tiếng Việt số 12/1989<br />(12) Gió đông gió tây : ảnh hưởng và giao thoa trong văn học Việt nam hiện đại , in trong Văn học so sánh lý luận và ứng dụng , NxB Khoa học xã hôi, H. 2001 , tr 393 .thuykuehttp://www.blogger.com/profile/11377510706382381616noreply@blogger.comtag:blogger.com,1999:blog-2791392219377915741.post-25707445508829049222009-01-11T21:31:00.000-08:002009-01-11T21:32:08.157-08:00QUAN NIỆM CỦA CHÚNG TA VỀ NGƯỜI NÔNG DÂN Đà THAY ĐỔINhiều gia đình ở Hà Nội có ô-sin . Họ được sử dụng vào nhiều việc , thông thường là trong nom trẻ con , phục vụ người già yếu, và trở thành nhân công chính trong các việc buôn bán ở nhiều cửa hàng. Nhớ lại mấy năm về trước , và so với tình cảnh gia đình mình bây giờ, nhiều người Hà Nội chưa cần buôn tàu bán bè lớn lao mà chỉ làm ăn bình thường vẫn thở phào , không có ô-sin thì rồi không biết xoay xoả thế nào !<br /> Thế nhưng những ngày gần đây, sự than phiền vì ô-sin đã trở thành câu chuyện đầu miệng . Làm ăn cẩu thả , đập giập bóp bẹp cho qua . Lãng phí , phóng tay áo xô đốt nhà táng giấy , bữa ăn còn hàng bát cơm với lại nửa bát nước mắm cũng đổ xuống cống hết . Ăn bốc ăn bải ăn vụng vô tư. Nói ngọng . Nói trống không. Nói dối thản nhiên, nói dối thành thần .Chẳng có lý do gì cũng cười , bị mắng càng cười vẻ như ta chỉ có thế. Dửng dưng vô cảm . Học đòi một cách vụng về .Nhiều người trong thế “ mắng mãi cũng chán “ , cực chẳng đã phải chấp nhận “ chung sống với ô-sin “ , nhưng lắm lúc nằm bắt tay lên trán nghĩ thấy sợ . Còn đâu là thứ văn hoá gia đình các cụ xưa để lại ?<br /> Gia đình tôi cũng thuộc về những gia đình sống nhờ ô-sin kiểu ấy . Để cho công bằng nhiều lần tôi nói với vợ con: Họ hư một phần lớn cũng là do chúng ta .Thế này nhé : Đến với ta họ có được chúng ta bảo ban huấn luyện gì đâu ; và điều quan trọng, ta thuê họ bằng một mức lương rẻ mạt , làm chăm làm lười như nhau , đời sống chẳng có gì bảo đảm . Hơn nữa nhiều thói xấu bắt đầu từ ta .Chính dân Hà Nội hàng ngày đi làm cũng tìm mọi cách xoay xoả rút ruột nhà nước kiếm thêm, còn trong việc buôn bán làm ăn thì lừa lọc nhau, bà chủ bán hàng mong người giúp việc đánh lừa khách hàng, người nọ lừa người kia. Chỉ đến khi họ mang cái lối sống ấy vào việc gia đình , chúng ta mới lại cáu sườn lên cả một lượt .( Gần đây , tôi nhớ có người trên mặt báo đã khái quát rằng đang xảy ra một quá trình “ người nông thôn làm hỏng người Hà Nội và người Hà Nội làm hỏng người nông thôn “, cả hai đều “ vừa là thủ phạm vừa là nạn nhân “.)<br /> Vợ tôi nghe đến đây im lặng chỉ bảo là thiên hạ người ta sống thế , mình không sống khác được.<br /> Mặc dầu trong đầu còn nhớ rằng chính cái lối nghĩ “không dám làm gì khác người ‘, “trông thiên hạ mà sống” thực ra vốn xuất phát từ các làng quê , song tôi thừa biết nói gì thêm cũng vô ích . Thôi chỉ có cách lặng im !<br /> Chết nỗi do công việc của một người viết văn viết báo ,câu chuyện hàng ngày nói trên không ra khỏi đầu tôi mà nó còn làm tôi cứ phải vân vi thêm mãi . Nhà cửa mình làm do thợ các tỉnh lên xây , con cái trước khi đến trường do ô - sin dạy dỗ , vào một cửa hàng ăn nhận ra ngay người mang miếng ngon miếng sốt lên cho mình là “bà con ngoại tỉnh” mới được tuyển dụng .Có một lần tôi đã ghi được một con số , hàng ngày Hà Nội có khoảng 500.000 người các tỉnh đến làm ăn . Tức ra đến đường ta gặp người nhập cư , và cả Hà Nội thành một thành phố nhập cư chịu sự chi phối rõ rệt của cách sống nông thôn ( có lẽ đó cũng là một lý do khiến cho một nhà báo người Mỹ ở Việt Nam vài chục năm nay bảo rằng Hà Nội là một cái làng lớn ). Nếp sống phổ biến của những người nhân danh chân quê thường cũng là tuỳ tiện cẩu thả , nói thách nói dối , nhân danh sự nghèo khổ muốn làm gì thì làm , kể cả phạm luật: cứ trông mấy cô bán hoa quả dắt xe đạp đứng ở các ngã tư đầy xe cộ thì biết .<br /> Giá mà tôi chỉ dừng lại ở đấy thì cũng đỡ . Giống như một thứ máy mồm máy miệng, tôi đẩy liên tưởng của mình đi xa hơn . Tôi nhớ đến những bài học mà học trò bao đời vẫn được nhà trường dạy dỗ : rằng do cuộc sống vất vả của mình nên những người chân lấm tay bùn thường là những người có phẩm cách tốt đẹp . Họ thật thà trung hậu ; họ nhân ái tiết kiệm ; họ siêng năng làm lụng ; họ “lành cho sạch rách cho thơm” … Những người ấy còn không ? Hay là tôi phải nghĩ khác và những người viết văn phải viết khác đi về họ ? .<br /> Đến bây giờ thì bạn đọc thân mến đã hiểu lời tôi rào đón ban đầu rồi chứ . Tôi biết những liên hệ của tôi vừa rồi là mang tiếng suy diễn . Tôi vừa nghĩ vừa sợ tội và viết ra trong ngần ngại . Nhưng tôi biết dựa vào đâu để hiểu nông thôn bây giờ ? Chẳng nhẽ những người nông dân lên thành phố vài ba ngày đã không phải là nông dân nữa và tôi chỉ có quyền sống với người nông dân trong mộng ?<br /> Ghép tôi vào tội suy diễn cũng được, nhưng đâu là hình ảnh chân thực của người nông dân thời nay , ai chỉ giùm tôi bây giờ ? <br /> Tết đã đến nơi rồi . Tết có nghĩa là phố phường sẽ chỉ còn người Hà Nội với nhau . Tôi tưởng tượng ở nhiều làng quê các tỉnh lân cận , trong các gia đình , ông bố bà mẹ sung sướng đón nhận đứa con lên tỉnh làm ăn giờ về gặp lại họ. Các em các cháu còn mang về cho họ tiền , nhiều khi là tiền triệu .Thế nhưng trong các gia đình này liệu có ông bố bà mẹ nào chợt nhận ra rằng con mình bây giờ hư quá , mất hết cả nết ngoan ngoãn thuần hậu như ngày trước. Tôi se lòng lại khi nghĩ rằng người Hà Nội có lỗi trong việc hàng ngày hàng giờ đẻ thêm ra những công dân trẻ dở dang nham nhở , nửa tỉnh nửa quê. Nhưng tôi càng buồn thêm khi nghe mọi người bảo rằng bây giờ ở các làng quê cũng chẳng còn ông bố bà mẹ nào sợ con hư đâu, chỉ cần có tiền là họ vui rồi, và họ cũng đang lây cả cách nghĩ cách sống mà bọn trẻ mang từ thành phố về .Tôi hiểu rằng nông thôn ta phải giàu lên chứ không thể nghèo mãi như cũ . Thế nhưng chẳng nhẽ giữa một bên là nếp sống tốt đẹp tử tế và một bên là sự giàu có hơn lên , chúng ta chỉ có quyền chọn một ?thuykuehttp://www.blogger.com/profile/11377510706382381616noreply@blogger.comtag:blogger.com,1999:blog-2791392219377915741.post-91273761252240499262009-01-11T21:22:00.001-08:002009-01-11T21:22:57.945-08:00NGƯỜI VIỆT HẢI NGOẠI VÀ CÔNG CUỘC HỘI NHẬPMỗi khi có bà con đang sống ở nước ngoài về chơi là nhiều gia đình Hà Nội chộn rộn hẳn lên. Lo cho người xa về chỗ ăn chỗ ở cho tươm tất. Dẫn đi thăm thú lại quê hương và nhận lại họ hàng. Mải chuyện liên quan đến quê nhà nhiều khi quên cả chuyện của người xa xứ. <br /> Nhưng đó là tình hình của dăm bảy năm trước, còn gần đây thì khác. Bây giờ thì việc bà con trở về đã quá bình thường. Người về có cái hòa nhập tự nhiên mà người đón cũng tự tin không quá lo lắng. Câu chuyện nhẩn nha bình thản hơn.<br /> Bà cô tôi từ Canada về cuối 2006 cũng vậy. Không có xáo động nào quá lớn xảy ra với gia đình, mọi chuyện quá giản dị. Nhưng cũng nhờ vậy mà tôi hiểu thêm mối liên hệ giữa những người xa quê hương với cộng đồng.<br /><br />Đặt người ra đi trong mối quan hệ với hội nhập <br /> Qua tiếp xúc với người mà hiểu thêm mình là một trong những con đường nhận thức được nhiều người công nhận là cần thiết và “ có triển vọng”, tức có khả năng tạo nên hiệu ứng, có giá trị đích thực đối với những chủ thể đang muốn tự hiểu về mình – chữ chủ thể ở đây không phải chỉ là từng người riêng lẻ mà bao gồm cả một cộng đồng lớn cả dân tộc.<br /> Muốn thế thì bên cạnh việc đón tiếp người, còn phải biết đi ra với người.<br /> Lâu nay ở Việt Nam, việc đó không được coi là tự nhiên. Do những lý do thuộc về địa lý và lịch sử, dân ta thường ít đi rộng ra ngoài mảnh đất sinh sống, từ đó những hiểu biết của mỗi chúng ta về những xứ sở khác, những con người khác, thường thiếu hệ thống thiếu toàn diện, không đủ giúp ta có dịp tốt để đối chiếu so sánh. <br /> Việc này lại tìm thấy ở hoàn cảnh chiến tranh một lý do để kéo dài. Mấy chục năm ấy, ta tập trung lo những công việc trước mắt. Chưa thấy cần mà cũng chưa có thời gian tái khám phá bản thân. Quá tự tin, và tưởng sự mình biết về mình đã quá đủ, không mấy ai ngồi tính xem cần đi đâu thêm, hỏi thiên hạ thêm điều gì nữa. <br /> Nhưng lịch sử đã có những sự bù đắp bất ngờ. Từ nửa sau thế kỷ XX, người Việt có mặt trong khắp thế giới. Tạm để lý do tại sao họ đi sang một bên, chỉ nhìn thuần túy hành động thì có thể bảo trên con đường hội nhập với thế giới, người Việt ra đi mấy chục năm nay và hiện đang ở hải ngoại là sự chuẩn bị cho tương lai. Nên nhìn vào họ thấu đáo, xem như là một trong những cách để dân mình hiểu về chính mình. Nhất là có thể nhìn họ như những người “ lội nước đi trước “dò dẫm thử đường trong công cuộc hội nhập.Việc này đang thâm nhập vào từng gia đình, và sở dĩ tôi mang chuyện bà cô tôi và gia đình tôi ra kể bởi tin đó cũng là chuyện của các gia đình khác. <br /><br /> Tự bộc lộ và thể nghiệm <br /> Hình như thói quen chỉ ngồi mà nói là thói quen dành riêng cho đàn ông. Với phụ nữ nhất là lớp người lớn tuổi, quây quần chuẩn bị nấu nướng là cái cách tốt nhất để thoải mái trong hàn huyên chuyện trò mà không cảm thấy … mất thời giờ. Nói theo chữ nghĩa của lớp trẻ, những bữa nấu ăn trở thành “cái sân chơi tự nhiên” cho sự chia sẻ ở gia đình tôi những ngày vừa qua. Bà cô ngoại bảy mươi ngồi bảo vợ tôi cũng đã “đầu 5 ” ít cách làm các món ăn cũ. Trông bà làm như thấy hiện hình nếp sống bình thường của các gia đình từ 1945 về trước mà tôi còn nhớ qua các trang tiểu thuyết của Khái Hưng, Thạch Lam, Đỗ Đức Thu …. <br /> Thỉnh thoảng đọc các báo người Việt làm ở hải ngoại đã thấy nói là chính trong cộng đồng người Việt, bên cạnh một số mất gốc, lại có nhiều người bảo lưu rất tốt nếp sống cũ. Nay hóa ra đó là chuyện thấy ngay ở người nhà mình. <br /> Những lúc rỗi rãi, bà cô tôi ngồi kể bên ấy họ hàng người quen sống ra sao. Thì cũng mỗi người mỗi kiểu. Có những người mệt mỏi quá với cuộc sống hồi còn ở nhà quay ra làm một cuộc đại xả hơi. Ăn bám chơi bời xoay tiền bằng bất cứ cách nào có thể, và bê đầy đủ những thói xấu của người trong nước sang xứ người ta.Vô can hơn một chút là lớp người già thiên về nghỉ ngơi, khi có việc gì không vừa lòng thì lặng lẽ chịu đựng và đi chùa. Trong khi đó, lớp trẻ đăm đuối vào việc học, tự hào là có thể hành nghề đàng hoàng ở xứ người. <br /> Không chỉ là sự tò mò, mà tôi còn thường theo dõi những câu chuyện này, nhất là chuyện về cách sống của những người cùng tuổi với một tâm lý hồi hộp: nếu chuyện đó xảy ra với mình thì mình sẽ cư xử ra sao. Một cách ngẫu nhiên tôi chợt nhận ra mình đã xem những người ra đi như là một bước thể nghiệm của cả cộng đồng người Việt trong tiếp xúc với thế giới lớn lao bên ngoài. <br /> Nhưng như thế thì đã sao ? Chẳng phải chính đó là một nhu cầu lịch sử mà con người do không tính được nên tạm lờ đi đó sao.<br /> Trong sân khấu hiện đại, có một nguyên tắc là sự gián cách, đại ý nói rằng chính khi có điều kiện lùi ra xa người ta lại càng hiểu đầy đủ hơn về một sự vật. Nguyên lý đó cũng tồn tại trong thực tiễn đờ sống .<br /><br />Những cách đóng góp khác nhau <br /> Hai tiếng hội nhập vào những ngày này, xem như là luôn luôn ở đầu lưỡi mọi người nhưng cách hiểu về hội nhập lại khá đa dạng. <br /> Với nhiều người, hội nhập đại khái là làm hàng xuất khẩu là kêu gọi đầu tư, là gọi vốn và đó chính là chỗ các kiều bào có thể đóng góp. Nghe nói cái đó, ở Trung Quốc, người ta làm nhộn nhịp lắm. Ở VN chưa có bao nhiêu, nhưng tôi biết là thời gian tới nếu biết cách huy động, thì cũng sẽ thu được hiệu quả.<br /> Nghĩ rộng hơn một chút, có người hiểu hội nhập bao gồm cả chuyện nhân lực. Ở chỗ này, người Việt hải ngoại cũng có ưu thế. Ra nước ngoài, dân mình chịu học và có điều kiện để học.Trên toàn thế giới, thiếu gì giáo sư là người Việt đáp ứng đủ tiêu chuẩn các đại học hàng đầu.Có hẳn một lớp trí thức hội nhập được với nền giáo dục ở nước ngoài. Họ đang lo giúp đại học trong nước . <br /> Trong một chuyến du lịch ngắn ngày, tôi còn nghe nói ở Cam pu chia, chính những người ra đi hồi chiến tranh mà có tài , nay ở mọi ngành đều được trọng dụng. Bởi hồi ấy họ sớm nghĩ rằng có một cách yêu nước là chuẩn bị về xây dựng đất nước sau hòa bình. Việc trọng dụng họ hôm nay khiến cho chính những người có công chiến đấu hôm qua có lợi. Ta còn chưa biết làm thế. Ba mươi năm sau chiến tranh song những vấn đề của quá khứ vẫn đang đè nặng lên chúng ta. Còn có lẫn lộn giữa đóng góp trong quá khứ và đóng góp trong hiện tại. Nhưng tôi ngờ rằng nhu cầu thực tiễn đến lúc nào đó cũng kéo chúng ta đến với cách dùng người theo hiệu quả. Nếu theo tiêu chuẩn như vậy, thì lực lượng Việt kiều là cả một nguồn lực bổ sung không dễ mà có .<br /> Còn như cái chuyện gọi là tự bộc lộ và thể nghiệm tôi nói ở đây ít ai để ý. Nhưng xét trên tầm ảnh hưởng ở bề rộng thì sự thực là thế. Nó cũng là một đóng góp đại trà của người Việt xa quê mà chúng ta cần trân trọng đánh giá và khai thác.thuykuehttp://www.blogger.com/profile/11377510706382381616noreply@blogger.comtag:blogger.com,1999:blog-2791392219377915741.post-29857132810668840992009-01-11T21:15:00.001-08:002009-01-11T21:15:53.006-08:00HỘI NHẬP & ĐỔI MỚICuộc gặp gỡ tự nhiên <br /> Những phát hiện lớn về tham nhũng thường được mọi người nhớ tới đầu tiên khi điểm lại những sự kiện chính của đời sống nửa đầu 2006. Tiếp đó, cùng với việc Bảo tàng dân tộc học mở cuộc trưng bày về cuộc sống Hà Nội thời bao cấp, báo chí có loạt bài khắc họa lại tình hình đêm trước đổi mới, những mong tìm ra cái lý do sâu xa làm nên sự chuyển biến của xã hội hai chục năm qua. Cái sự nghiệp đang là lẽ sống của chúng ta trong những ngày này như đã tìm được cách kỷ niệm độc đáo. Song đó cũng chính là một lời thú nhận về những lúng túng trong việc nhìn lại một chặng đường lịch sử. <br /> Vụt một cái, những ngày cuối năm 2006, định hướng hội nhập ào đến và không rời khỏi đầu óc chúng ta nữa. Giờ đây nhiều người kết thúc một ngày công việc với ý nghĩ về hội nhập, mở mắt dạy với ý nghĩ hội nhập. Con đường vừa mở khiến ta bàng hoàng song nghĩ cho cùng, nó là kết quả của một cuộc khai phá kiên trì và ráo riết. <br /> Đâu là mối quan hệ qua lại, đúng hơn là mối quan hệ biện chứng, giữa Hội nhập và đổi mới trong hoàn cảnh của một nước VN ở giai đoạn bản lề này ?<br /> <br />Một phương hướng lớn hay là một sự hoàn thiện <br />mà hội nhập mang lại cho đổi mới <br /> Bung ra là hai tiếng tóm tắt chính xác cái tinh thần của không khí thời bắt đầu đổi mới. Người ta cảm thấy không thể sống nguyên như cũ được nữa. Tất cả có thể và phải làm khác. Không kịp nghĩ nhiều, chần chừ là có tội, lúc này hãy hành động đã. Đó là tình trạng của chúng ta hai chục năm trước.<br /> Nhà sử học Phan Huy Lê đã nói sự thật khi bảo rằng “ những người khởi xướng cuộc vận động xã hội những thập kỷ 70, 80 của thế kỷ 20,chính là những người nông dân lao động trong hợp tác xã, rồi đến các lãnh đạo địa phương. Những ràng buộc của cơ chế tập trung quan liêu bao cấp đã đẩy họ vào bước đường cùng và buộc họ phải bứt phá, từ đó có những sáng tạo cấp tiến.” (mạng VietnamNet 6-12-06 ) <br /> Tiếp theo sự bung ra tự phát như vậy, có thể nói hội nhập hôm nay là cái bước đi tự giác. Hội nhập để thoát ra khỏi thế cô lập, hội nhập để thoát khỏi đói nghèo, giờ đây ai cũng hiểu vậy. Không chỉ là sự nối tiếp tự nhiên của chặng đường đã qua, hội nhập còn là cái bước đi kiên định của kẻ đã tìm được phương hướng. Trước ta chỉ nói thay đổi. Nay đã có thể nói rõ hơn thay đổi bằng cách đi ra với thế giới. Trước ta sống bằng những chuẩn mực do chính ta đặt ra. Nay ta chia sẻ với nhân loại những giá trị chung. Không co mình lại giữ miếng. Không còn những e ngại, kể cả những hù dọa tưởng tượng tự mình nhát mình. Cái hướng lớn đã tìm thấy. Và sự hào hứng thì nẩy sinh trong hành động. <br /><br />Việc trước mắt có, việc lâu dài có <br /> Thời bắt tay đổi mới ấy, ta chỉ biết đại khái rằng trên con đường làm giàu sẽ có những việc như buôn bán đối ngoại, tiếp nhận công nghệ tiên tiến, mời gọi đầu tư, làm hàng để xuất khẩu, đưa người đi lao động. Nay với việc hội nhập toàn diện, những việc lâu dài như cải cách hành chính, xác định hành lang pháp lý, tổ chức lại lực lượng lao động, xây dựng con người hiện đại … mới được đặt ra. Sở dĩ một chuyên đề được bàn bạc nhiều trong những ngày này là giáo dục đại học, lý do là vì như thế.<br /> Hội nhập như vậy mang lại cho đổi mới một nội dung toàn diện và cụ thể. Ai cũng biết dân mình có thói quen nước đến chân mới nhảy, và chín bỏ làm mười tùng tiệm thế nào cũng xong, cách nghĩ này đã kéo dài quá lâu. Nay chỉ cần nhìn vào quyết tâm làm lại đại học đủ thấy chúng ta bắt đầu tập phóng tầm mắt xa hơn, lo việc năm mười năm sau, và tính cả chuyện đạt tới những chuẩn mực quốc tế. Rồi đây, những thay đổi trong cách nghĩ như thế sẽ nẩy nở ngày một nhiều. Hội nhập thực đã đánh dấu một giai đoạn phát triển về chất của đổi mới.<br /><br /> Những đơn đặt hàng cấp bách <br /> Sau một thời gian bung ra, thì những yếu kém của xã hội có dịp bộc lộ đầy đủ hơn bao giờ hết. Ở trên chúng ta đã nói vì quá bức bách mà phải đổi mới. Song ngược lại cũng vì những yếu kém sâu xa ấy mà những bước đổi mới ban đầu không tránh khỏi vấp váp. Có bước trồi bước sụt. Có lúc đi đường vòng. Có nhiều việc mà ngày nay nếu được làm lại, chắc chắn sẽ làm khác.<br /> Đối diện với hội nhập tức là nhận lấy một thách thức. Đứng ở nhu cầu hội nhập mà xem xét thì có thể nói chính vì những yếu kém nói trên của đổi mới mà hội nhập được khởi động có phần chậm chạp và có lúc tưởng đã không nhích lên được khỏi những bước ban đầu. Càng ngày càng thấy chỉ hội nhập mới đóng được cái vai trò lớn lao là đặt hàng cho những đổi mới cụ thể. Nhu cầu thật rõ ràng và nghiêm khắc: không đổi mới không hội nhập được. Muốn vươn ra biển lớn thì chính con tàu phải được sắp xếp lại. Cái mệnh lệnh của đổi mới đã đến cả với những khâu công việc vốn lâu nay chìm trong bóng tối, do đó trì trệ nhất, chậm chuyển biến nhất.<br /> Theo nghĩa này, chính quá trình hội nhập tạo nên sức ép và mang lại cho đổi mới một động cơ thúc đẩy thực sự.thuykuehttp://www.blogger.com/profile/11377510706382381616noreply@blogger.comtag:blogger.com,1999:blog-2791392219377915741.post-30977335572807387932009-01-11T21:00:00.001-08:002009-01-11T21:00:49.124-08:00NGƯỜI LÀM BÁO & HỘI NHẬPThủy sản và rau quả, may mặc và đồ gỗ, chè cà phê và thủ công mỹ nghệ -- nhiều ngành sản xuất của chúng ta đang hăng hái tham gia vào quá trình hội nhập bằng cách làm hàng xuất khẩu .<br /> Quay về nhìn vào một ngành như truyền thông báo chí, thì vấn đề này hình như chưa đặt ra. <br /> Về nguyên tắc chắc chẳng ai phủ nhận rằng sẽ rất may mắn cho đất nước, nếu trong hàng ngũ những người viết báo, có một vài cây bút viết ra liền được bạn bè nước ngoài tìm đọc, nhờ đó mà họ hiểu thêm tình hình V N, rồi khi có dịp sẽ đến V N làm ăn hoặc thăm thú du lịch. <br /> Tuy nhiên theo sự hiểu biết của tôi, ai cũng thấy ngay là loại nhà báo đó gần như chưa có. Lâu nay, những người làm báo chỉ tự đặt cho mình một mục đích khiêm tốn là tác động tới bạn đọc trong nước. <br /> Điều này có những lý do hoàn toàn chính đáng. Không ai giao cho ta việc ấy cả. Mà trình độ đào tạo của chúng ta thì hạn chế. Mấy ai được đào tạo ngoại ngữ cẩn thận ? Mấy ai được đi thực tập ở các cơ sở nước ngoài ? <br /> Vậy là có muốn cũng không làm được.<br /> Có điều , rồi với cái việc chưa kịp làm ấy, nhiều người lờ đi, coi như không có. Ta bằng lòng với việc mãi mãi nhường đất cho các cây bút nước ngoài để họ nói về Việt Nam thế nào tùy ý họ.<br /> Cố nhiên không phải ai cũng có thể và nên trở thành một nhà báo viết về VN cho các tờ báo nước ngoài. Thôi thì chịu vậy !<br /> Song nâng cao tay nghề, đưa báo chí ta đạt tới trình độ quốc tế lại là một điều nhất thiết bắt buộc phải được đặt ra với mọi người. <br /> Với các ngành sản xuất trong nước , có một tác động lớn của hội nhập mà ta hay quên. Ngoài mục đích tăng thêm nguồn thu cho đất nước, việc làm hàng xuất khẩu còn có ý nghĩa là một dịp để tự hoàn thiện, tức để đưa trình độ làm ăn của chúng ta vượt lên trên trình độ lạc hậu những năm chiến tranh và tiến tới trình độ của thế giới hiện đại. Khi đã tiến hơn về trình độ, ta sẽ quay về phục vụ người tiêu dùng trong nước tốt hơn, hiệu quả hơn. <br /> Với báo chí cũng có tình hình tương tự.<br /> Trong nhiều lần gặp các bạn làm báo trẻ, tôi thường thử hỏi có bạn nào thường xuyên đọc một tờ báo nước ngoài – đọc không phải để lấy thông tin và xào xáo lại phục vụ mấy người tò mò -- , mà là để học hỏi về nghề và lo làm tốt hơn việc đưa tin trong nước ? <br /> Hoặc tôi ướm thử , bạn có biết là nếu ở vào trường hợp của bạn, tức đang làm cho một tờ báo như bạn và phải theo đuổi một chuyên đề như bạn, thì người ấy làm như thế nào không ?<br /> Không may cho tôi, câu trả lời tôi nhận được trong những trường hợp trên, thường khi là không.<br /> Tôi cho rằng như vậy là các bạn trẻ của tôi đã bỏ lỡ một dịp may, một cơ hội lớn mà thời đại mang lại , để phấn đấu và từ đó trưởng thành.thuykuehttp://www.blogger.com/profile/11377510706382381616noreply@blogger.comtag:blogger.com,1999:blog-2791392219377915741.post-56710417918574533532009-01-11T03:58:00.000-08:002009-02-17T01:58:23.014-08:00: Đường xa vụng tínhTừ hồi bung ra làm ăn, mốt phổ biến ở Hà Nội là nhiều gia đình cả hai vợ chồng lao vào kiếm sống. Chồng làm thêm ở cơ quan lại đá thêm tí cò bất động sản. Vợ bỏ nhà nước ra chạy chợ. Con cái có khi cả ngày không thấy mặt bố mẹ. Tiền đây, đi ăn rồi đi học. Điểm khá ư, khó gì, muốn điểm giỏi cũng được, để lúc nào bọn này đến nói chuyện với các cô bằng phong bì là xong. Bọn trẻ con yên chí đã có tiền đút cho nhà trường rồi, không cần học, nên chỉ vạ vật vừa học vừa chơi, đến nỗi có đỗ đại học rồi cũng không thành người, xin việc không nơi nào nhận.<br /><br /> Gia đình anh M. bạn tôi thì khác. Anh chỉ để cho vợ chạy chợ. Còn anh vẫn chỉ làm việc bình thường, ngoài ra bao nhiêu công sức đổ vào dạy con. Con anh học hết đại học được học bổng đi nước ngoài học cao học, quay về lúc nào cũng sẵn những chỗ rất thơm mời mọc. So với các gia đình khác, mức sống nhà anh M. dăm năm trước có đuối hơn một chút, nhưng nay xem ra cũng chẳng kém ai. Lại được đứa con giỏi giang, ai cũng nói đùa giá tiền tỷ. Anh M. cắt nghĩa bằng giọng của người làm kinh tế: “Chẳng qua là tôi biết đầu tư thôi, kiểu đầu tư của tôi không ra lãi ngay, nhưng hiệu quả lâu dài. Ai cũng làm được, chỉ sợ không có gan”.<br /> Sở dĩ cái lối nghĩ ăn xổi ở thì lan ra ở nhiều gia đình Hà Nội vì sau chiến tranh, nhiều người chúng ta ở thế cùng, không lao đi kiếm ăn không xong. Mà nó cũng là cái tính chung của dân mình, tham bát bỏ mâm, tầm nhìn hạn hẹp. Điều tôi muốn nói thêm hôm nay là không những nhiều gia đình làm vậy mà cả nước mình cũng vậy. Bước vào thời kỳ mở cửa, có bao nhiêu tài trí đổ ra lo làm ăn hết. Lo có gạo xuất. Lo có dầu xuất. Gỗ được giá thì phá rừng cũng bán. Tôm được giá thì bỏ ruộng nuôi tôm không cần biết sau này đất hỏng ruộng thoái hóa ra sao. Cốt ngân quỹ thu về ít tiền. Người ta lấy đồng tiền nộp vào kho để đánh giá từng ngành. Cứ ai làm ra tiền ngay thì được cả xã hội săn đón và tha hồ vênh vang. Còn ngành nào phải chi tiêu nhiều y như có tội, có khó khăn gì thì người làm những ngành không nóng lắm này cha con tự xoay xỏa lấy với nhau. Đến ngay cả mạch máu đất nước là giao thông, có cảm tưởng người ta cũng chỉ lo cho nó vừa vừa thôi. Tôm xuất khẩu, gạo xuất khẩu mà hơi kém một tí là cả xã hội lao vào tìm cách thúc đẩy, ai làm hỏng là phạt ngay. Chứ giao thông ấy ư, nhân viên trong ngành có chia nhau tham nhũng và toàn làm đường xấu đường hỏng cũng được, đường có xấu một chút hãy đi tạm, không đáng lo bằng chuyện con tôm với thùng dầu. <br /> Trên cái nền tâm lý như trên chuyện giáo dục hiện nay có bê trễ cũng không có gì là khó hiểu. Về lý thuyết mà xét, không ai coi nhẹ chuyện “trồng người” này. Ngay cả tiền bạc được chi cho giáo dục hàng năm, theo chỗ tôi được biết, cũng lớn lắm, chắc chắn là loại hàng đầu trong bảng chi ngân sách. Nhưng ít ra có thể thấy mấy điểm:<br /> Thứ nhất là tâm lý chủ quan, không thấy hết chỗ lạc hậu của giáo dục Việt Nam, cho rằng xưa nay dân mình vốn thông minh hiếu học, cán bộ mình vốn giỏi giang vậy chịu khó động viên nhau một chút là xong. <br />Thứ hai là không đặt vấn đề đưa giáo dục của mình hội nhập thế giới, tưởng rằng cứ đào tạo một lớp người làng nhàng thế này rồi liệu dần, dân càng dốt càng dễ bảo.<br /> Từ đây dẫn đến tư tưởng chỉ đạo thứ ba là không thấy sốt ruột trước những tật bệnh của cái ngành máy cái này. Nghe nói một dây chuyền sản xuất ở ngành kinh tế nào đó lạc hậu là cuống lên lo nhập. Nhưng trước những đổi mới cần thiết của giáo dục thì ngần ngại, sợ tốn tiền, sợ gây ra những thay đổi bất ngờ.<br /> Kết quả thế nào thì tất cả chúng ta đã biết, kết quả như kỳ thi phổ thông năm nay, cả nước cười dở khóc dở, đề ra dễ chưa từng có mà cứ chia ba thì có một học sinh trượt. Còn giáo dục đại học bất thành nhân dạng, bằng giả đầy, bằng thật thì chất lượng cũng giả, đụng đâu cũng gặp giáo sư, tiến sỹ mà chả ai có công trình nghiên cứu, chả ai có phát minh đóng góp gì cho sản xuất. Tính sơ sơ đã thấy, từ tầm nhìn của sự phát triển, cái “tội” lớn nhất của giáo dục là không đáp ứng nhu cầu về số lượng chuyên gia và các loại thợ lành nghề. Nói cho đầy đủ hơn, lỗi lớn của nó là ở chỗ không bảo đảm đào tạo được những con người có cách sống cách nghĩ phù hợp với xã hội hiện đại.<br /> Bây giờ thì cái gì người ta cũng tính ra tiền được. Đại khái như đợt thi vừa qua, để nói không với tiêu cực số tiền chi ra sơ sơ đã là 45 tỷ. Vậy tác hại của việc kém cỏi của giáo dục đến sự phát triển của đất nước ra sao, hình như chưa ai tính, nhưng chắc tính ra con số cũng khủng khiếp. Việc quay về đầu tư vào giáo dục giờ đây đã quá muộn, nhưng làm gì có con đường khác?<br /><br />20/08/2007<a href="http://www.nguoidaibieu.com.vn/Trangchu/VN/tabid/66/CatID/4/ContentID/22516/Default.aspx"><u><em>người đại biểu nhân dân</em></u></a>thuykuehttp://www.blogger.com/profile/11377510706382381616noreply@blogger.comtag:blogger.com,1999:blog-2791392219377915741.post-49768952041139733392008-10-31T23:59:00.000-07:002008-11-07T01:58:33.375-08:00Nhận diện lại xã hội Việt Nam nửa đầu thế kỷ XX trong Số đỏMột nhà văn thường được đánh giá cao do chỗ phản ánh được một phần , theo cái cách riêng của mình , những phương diện cơ bản cùng là cái xu thế phát triển của thời đại . Những tiêu chuẩn đó cũng thường được các nhà nghiên cứu áp dụng choVũ Trọng Phụng và đã tạo nên một cách khai thác nhất quán với các tác phẩm của ông .Thế nhưng nếu quan niệm nội dung đời sống được ghi nhận trong một tác phẩm là một cái gì phức tạp nhiều tầng nhiều lớp thì người ta còn có thể lật ra nhiều phương diện của hiện thực trong Vũ Trọng Phụng – miễn là có một cách đọc khác đi so với cách đọc thông thường .<span id="fullpost"> <br /><br />Những bằng chứng về quá khứ<br />Đầu chương II của Số đỏ ,có một đoạn văn ghi lại cuộc trò chuyện giữa một viên quản với một thày cảnh sát dưới quyền :<br />---Thày có tiếc cái thời buổi ngày xưa ,cách đây mười năm không ?<br />--- Tiếc lắm ! Mười năm trước đây, dân ta còn ngu ..<br />--- Ngày nay dân ta văn minh mất rổi rõ thảm hại ! Thày phải biết là xưa kia , xã hội tinh nhứng du côn với nặc nô , tinh những người bất lịch sự chỗ nào cũng phóng uế ,cũng đánh nhau . Hồi ấy có khi bốn người ngồi một xe ! Họ chửi nhau hàng nửa giờ ,đánh nhau vỡ đầu, nhà cửa của họ thì rác rưởi , nước cống nước rãnh tung toé ,ngập lụt . Chó của họ cũng chạy ra ngoài đường nhông nhông... Xe đi đèo , hay không đèn là nhan nhản . Bây giờ mọi sự đã thay đổi cả . Cái thời tốt đẹp của các cụ nhà ta không còn nữa .<br />Đoạn văn ghi lại trạng thái mâu thuẫn kỳ cục trong cách suy nghĩ của các nhân vật : Một xã hội tinh du côn với nặc nô làm sao có thể gọi là xã hội tốt đẹp được ? Chẳng qua chán đời thì họ nói liều , và tác giả thì cũng mượn chuyện của họ để nhấn mạnh sự thảm hại của văn minh là ấn tượng chủ đạo ông muốn nhấn mạnh khi nói về xã hội đương thời .<br />Tuy nhiên , phải nhận đoạn văn trên là một ít bằng chứng hiếm hoi về xã hội VN cuối thế kỷ XIX đầu XX , tức là xã hội Việt nam trước khi bắt đầu quá trình hiện đại hoá . Cái tinh thần chính của thời buổi ngày xưa ấy đã được gọi ra chính xác . Với những bằng chứng này ,chúng ta sẽ có tài liệu để so sánh và đánh giá đúng cái xã hội đương thời mà Vũ Trọng Phụng miêu tả trong Số đỏ .<br />Hình ảnh của một xã hội hiện đại<br />ấn tượng rõ nhất mà có lẽ tất cả bạn đọc đều cảm thấy khi đọc Số đỏ, ấy là cái sự nhố nhăng nhảm nhí của đời sống được nhà văn phác hoạ theo lối châm biếm . Nói như Lưu Trọng Lư , ngòi bút Vũ Trọng Phụng đã “ chế nhạo tất cả những cái rởm cái xấu cái bần tiện cái đồi bại của một hạng người một thời đại “<br />Có điều , nếu thử gạt đi lớp rác rưởi nổi trên bề mặt , nhất là để sang một bên cách đánh giá người và việc theo quan niệm đạo đức chật hẹp ,chúng ta thấy hình ảnh thực của xã hội đó không hẳn đã là hư hỏng như nhiều người vẫn nghĩ :<br />__ Thứ nhất , đây là một xã hội tương đối văn minh hiện đại . Nhiều đô thị mới ra đời . Nhiều nghề mới hình thành , không phải chỉ nhan nhản me tây đĩ điếm cùng các loại lưu manh bịp bợm , mà quan trọng hơn có người đi du học , có luật sư bác sĩ , có các loại cửa hàng và khách sạn đầy đủ tiện nghi , có cả các loại sân thể thao được xây riêng trong từng gia đình và các thày dạy quần vợt thì được trọng dụng .<br />--- Thứ hai , trình độ sống của con người được nâng cao , họ có ý thức về mình về xã hội chung quanh . Đằng sau cái câu nói đơn sơ “Lúc này đến cả thằng phu xe cũng biết luật “ là một sự thật : xã hội đã vượt qua giai đoạn tự phát mạnh ai nấy sống . Làm gì người ta cũng phải chú ý xem phản ứng xã hội với mình là như thế nào . Báo chí có mặt ở mọi nơi mọi chỗ .<br />Đặt bên cạnh những con người đơn giản , sống cầm chừng , chậm rãi , rời rạc của xã hội trung đại , thì con người lúc này luôn hiện ra với vẻ gấp gáp linh hoạt , sẵn sàng thích ứng với mọi biến chuyển lúc nào cũng có thể xảy ra. Từ Xuân tóc đỏ đến bà phó Đoan, từ vợ chồng Văn Minh đến ông Tip-phờ-nờ … và cả mấy người già như cụ cố Hồng đều có ý thức về cuộc đời mà họ đang sống , muốn sống theo những tiêu chuẩn mới mẻ mà họ tin tưởng chứ không phải thế nào cũng được , muốn đến đâu thì đến .<br />Đây là lời bà Văn Minh giảng giải cho một khách hàng về ý nghĩa của công việc mà hai vợ chồng bà ta theo đuổi :<br />--- Thưa bà chúng tôi chỉ tiến theo luật tiến hoá chung của xã hội . Giữa buổi canh tân này cái gì là bảo thủ thì bị đào thải đi .<br />Đặt trong mạch chung của tác phẩm thì đây có vẻ như lời lẽ mòn sáo của một kẻ học đòi . Nhưng thử tách nó ra như một văn bản độc lập , chúng ta thấy đây là những ý tưởng nghiêm chỉnh , đến nay chúng ta cũng đang hướng theo . Con người hiện đại đặc biệt có ý thức về một cuộc sống khác với những gì họ sẵn có . Họ đã nhìn rộng ra cả thế giới chứ không chỉ chăm chăm quay đầu về cái sân nhà mình hoặc cái làng con con của mình . Họ lại đã có được ý thức đúng đắn về thời gian và mối quan hệ giữa thời gian và bản thân . “Nó cảm thấy đời nó từ nay mà đi dễ thường đã vào một kỷ nguyên mới .” --- không nên một chiều cười giễu cái câu tự nhủ ấy của Xuân tóc đỏ , ngược lại nên ghi nhận ở nhân vật cả cái ý chí lập nghiệp lẫn một sự tiên cảm chính xác về tương lai !<br />Số đỏ kết thúc bằng việc Xuân nhường chức vô địch quần vợt cho đối thủ người Xiêm La . Câu chuyện có vẻ hoàn toàn bịa đặt , song đằng sau nó là một sự thực không tầm thường chút nào : một cá nhân như Xuân đã biết làm chủ hành động của mình , và đây không phải một sự tính toán thiển cận mà là một dấu hiệu của sự trưởng thành về lý tính .<br />Trong khi làm lại cuộc sống , cố nhiên ,trong tiềm thức , con người VN nửa đầu thế kỷ XX tự hiểu rằng mình có một quá khứ hết sức nặng nề . Trên mọi phương diện , họ đều nhận ra một sự đối đầu giữa cũ và mới , giữa lối cổ và lối kim . Nếu như thường xuyên chúng ta bắt gặp ở họ cái vẻ huyênh hoang thì chẳng qua cũng chỉ là một cách nói to lên những điều lớn lao để tự động viên mình . Sự thay đổi quá nhanh không khỏi dẫn tới những sự vội vã ép uổng , những nét kệch cỡm , nhưng không phải vì thế mà đáng sổ toẹt tất cả .<br />Ngòi bút chép sử ngoài ý muốn<br />Đã rõ là có hai tầng hiện thực khác nhau được ghi nhận trong các trang sách của nhà văn họ Vũ và thái độ của tác giả với hai mảng hiện thực ấy cũng khác nhau . Có vẻ như với Vũ Trọng Phụng , cái phần hư hỏng sa đoạ của đời sống đương thời là đáng quan tâm hơn cả . Ông tố cáo . Ông lên án . Ngược lại ,cái mảng hiện thực mà trên đây chúng tôi thử chắp nối để dựng lại -- gọi đích danh là xu thế phát triển của con người và xã hội -- có vẻ chỉ nhân tiện mà ông nói tới và do đó không ca ngợi mà cũng không bài bác , tức không biểu lộ một thái độ nào rõ rệt .<br />Song không phải vì thế mà nó , cái đời sống ở bề sâu ấy , không hiện ra một cách rõ rệt trong các tiểu thuyết , cũng như phóng sự của Vũ Trọng Phụng , nhất là Số đỏ . “ Bây giờ mọi sự đã thay đổi cả “ . Một câu như vậy quả đã thâu tóm được quá trình vận động của xã hội , và ở chỗ này có thể bảo Vũ Trọng Phụng là một người chép sử trung thành, đã ghi chép được những biến chuyển xảy ra trong lòng xã hội Việt Nam nửa đầu thế kỷ XX , mặc dù ông không có ý thức đầy đủ khi làm công việc khó khăn và ít người chịu làm ấy .<br /> </span>thuykuehttp://www.blogger.com/profile/11377510706382381616noreply@blogger.comtag:blogger.com,1999:blog-2791392219377915741.post-91322001589999723592008-10-31T23:58:00.000-07:002008-11-07T02:05:16.709-08:00Nguyễn Công hoan và “ cái nạn mừng tuổi “Nghi thức ra đời và tồn tại cùng với các mối quan hệ trong xã hội . Đằng sau những quy định đôi khi rườm rà, cổ nhân cốt lưu ý con cháu rằng đây là một hành động thiêng liêng trọng đại . Bởi vậy mọi việc phải được làm một cách cung kính . Trong cuốn sách viết về Khổng Tử, từ con mắt nhìn của con người hiện đại, Nguyễn Hiến Lê cũng nhấn mạnh “các nghi thức mà ngày nay chúng ta cho là phiền phức chính là có mục đích phát dương những tình cảm đôn hậu của ta”.<span id="fullpost"> <br />Tuy nhiên, là một sản phẩm của lịch sử, nghi thức cũng dễ bị tha hoá , tức là hình thức không đi kèm với nội dung, để rồi khi mà sự cảm động chân thành thiếu đi thì càng cầu kỳ càng trở nên vô nghĩa .<br />Nghi thức trong những ngày tết cũng không tránh khỏi sự biến dạng đó. Mặc dù xuất phát từ những dụng ý tốt , song một số phong tục trong dịp tết dễ bị đẩy lên thành cực đoan , bị tuyệt đối hoá ,bị mang ra áp đặt và biến thành một gánh nặng đối với con người . Chẳng hạn như việc mừng tuổi . Nhân dịp năm mới , một vài lời chào hỏi chúc tụng nhau , cần thiết lắm chứ . Song mọi việc lôi thôi bắt đầu từ chỗ thực hiện . Khi không tạo được cảm giác thiêng liêng , ta đóng kịch , ta lấy lòng nhau , quanh đi quẩn lại với những lời trống rỗng , hoặc , nói thô tục một chút , phải rặn ra mà nói . Tóm lại , nó bị làm hỏng và trong nhiều trường hợp , bảo rằng giả dối cũng không phải là quá …<br />Không biết bạn đọc có chia sẻ không , nhưng riêng tôi với việc đi mừng tuổi , thường được nghĩ vậy . ác một nỗi là ngay khi có cái ý nghĩ chán chường ấy thì trong đầu óc lại đã nảy sinh một thằng người khác phản bác lại : Này hãy dè chừng cái mồm . Anh định đóng vai lập dị hả ? Ai cho phép anh được nói chán ?<br />Đang đắn đo dằng xé thì bỗng ngẫu nhiên một lần , tôi tìm thấy một người cũng đã nói những ý nghĩ thật về việc đi chào hỏi ngày tết , mà đây lại là một ông kễnh trong giới cầm bút , cụ Nguyễn Công Hoan (1903-1977).<br />Tác giả Kép Tư Bền vốn nhạy cảm với những gì là phi tự nhiên, éo le, kỳ cục. Đã một vài lần ông nói về những trường hợp đón tết oái oăm , như Người ngựa và ngựa người , Cái tết của các nhà đại văn hào . Trường hợp tôi nói dưới đây là thiên truyện mang tên Năm mới tôi mừng ông . Trong cái tác phẩm chỉ mới in một lần trong một tập sách tết 1943 , và đến nay chưa một lần được in lại này , Nguyễn Công Hoan kể chuyện đúng mồng một tết, ông tới thăm nhà một đồng nghiệp dạy học tên là Định. Người này với ông không thật thân , nên không mấy khi ông đến chơi. Mà ông lại không nhớ số nhà, chỉ ang áng quãng ấy quãng ấy. Vào cửa, ông được con sen trong nhà tưởng là khách quen nên mời ngay lên gác để gặp chủ và trong khi đang lên cầu thang, ông được chủ mời làm một chân tổ tôm. Nghe tiếng, đã hơi ngờ ngợ, đến lúc chủ nhà ngẩng mặt lên, mới biết đã vào nhầm nhà, đành xin lỗi quay ra. Lúc ông xuống thang còn nghe chủ nhà mắng đầy tớ:<br />- Con ranh con, cửa cứ mở toang, ông Hoan đấy chứ, giá là kẻ gian thì có chết không?<br />Ai quen thuộc với ngôn ngữ giao tiếp ở đồng bằng Bắc bộ đều biết đây là một lối nói xỏ xiên , một lời mắng khéo . Đến nước này, tác giả Bước đường cùng cảm thấy … cùng đường thật . Nghĩa là ông bẽ bàng vô hạn: “Như bị một phát đạn nữa, tôi vội vàng trút trả miếng trầu và điếu thuốc lá, cút thẳng một mạch”.<br />Kể ra đây cũng là một tình thế trớ trêu, mà người ta ai cũng có thể gặp, nhất là những khi sơ ý.<br />Có điều, đằng sau câu chuyện mua vui, cái dụng ý của Nguyễn Công Hoan trong thiên truyện này đặt ở chỗ khác. Mặc dù là một người ghét lý luận, lại càng ghét sự dông dài trong khi thuật truyện, song trước khi kể lại cái “kỷ niệm để đời” nói trên, Nguyễn Công Hoan vẫn để ra một đoạn dài gọi là trữ tình ngoài đề mà chúng tôi muốn chép lại đầy đủ như sau:<br />“Tối ba mươi tết năm ấy, tôi cố xong tất cả các công việc để đến hôm sau, chịu cái tai nạn nó làm mất cả ngày: nạn tiếp bạn đến mừng tuổi và nạn mừng tuổi bạn.<br />Sự đi mừng tuổi nhau hôm mùng một đầu năm thật là một cái nạn. Còn gì khổ cho bằng phải tiếp những người hoặc đi đến nhà những người quanh năm chẳng gặp nhau lần nào, trừ tết nguyên đán. Chuyện đã chẳng có gì để nói, mà cứ phải cười gượng, nịnh nhau sằng, rồi mắt trước mắt sau chỉ muốn chuồn cho mau đến nhà khác để cũng làm cái công việc nhạt nhẽo ấy. Còn gì dơ dáng cho bằng mình vừa ở nhà một ông bạn chẳng thân gì, đã không có chuyện để nói, mà độ nửa giờ sau, ông bạn ấy đã lại nghễu nghện đến nhà mình cũng chẳng để nói một chuyện gì hơn là để mình khỏi trách là xử quỵt.<br />Cho nên, ngày mồng một tết, ở nhà nhưng nói dối là đi vắng, tức là đã làm một việc nghĩa rất to tát. Nhiều ông chỉ cần dò xem mình không có nhà lúc nào là đến tót ngay, để quẳng lại trên bàn tấm danh thiếp rồi đi cho mau, để lại quẳng vào nhà khác tấm danh thiếp. Đến nhà người ta mừng tuổi mà được chủ đi vắng, nhiều người cho là một sự may.<br />Vậy mà lối giao thiệp giả dối này lại rất cần cho những chỗ bè bạn sơ sơ. Vì quanh năm chẳng đến nhà nhau, hôm mồng một tết cũng chẳng đoái hoài đến nhau nốt, ấy là tình bằng hữu đi đứt”.<br />Xin được nói thêm mấy câu về chỗ tạm gọi là gặp nhau giữa bọn hậu sinh chúng tôi và một tác giả thuộc những thập kỷ đầu tiên của thế kỷ XX.<br />Không chỉ các nhà nghiên cứu mà trước tiên, bản thân Nguyễn Công Hoan đã chú ý tới một nét tiểu sử nó quy định tính cách con người ông. ấy là ông xuất thân từ một gia đình phong kiến có nền nếp, thứ phong kiến thanh đạm, biết giữ đạo trung dung, và thường khá bảo thủ trong cách nhìn nhận sự đời. Nói như nhà nghiên cứu Nguyễn Đăng Mạnh, thì gần như đã thành một quy luật ở ông: “Nếu có quan hệ đối lập giữa nam và nữ thì ông đứng về phía nam. Giữa bố mẹ và con cái thì ông đứng về phía bố mẹ. Giữa vợ cả và vợ lẽ thì đứng về phía vợ cả”.<br />Thế thì giải thích làm sao cái trường hợp phá cách nói trên, nghĩa là thái độ ngán ngầm ra mặt của ông với một nghi lễ thiêng liêng và phổ biến trong ngày tết? ở đây, chúng ta phải đối chiếu giữa nghi thức và cái cách người ta thường tiến hành nó để cùng nhận chân ra một sự thực: mừng tuổi trở thành cái nạn .<br />Trong Nguyễn Công Hoan. không chỉ có con người trọng lễ giáo mà còn có con người thực sự cầu thị, chán ghét mọi chuyện phi tự nhiên, giả dối, cho nên ông đã lên tiếng. Mà khi đã nói, thì ông nói khá phũ, đến mức như là hơi trắng trợn nữa. Năm mới tôi mừng ông được viết theo tinh thần đó .<br />Với lối nói có phần cực đoan của mình , Nguyễn Công Hoan còn kể là ông chia bạn bè ra làm bốn loại:<br />“Hạng nhất là các bạn quen xoàng hoặc hay giận<br />Hạng nhì là các bạn quen xoàng nhưng đại lượng.<br />Hạng ba là các bạn thân vừa.<br />Hạng bét là các bạn thân”.<br />Và mỗi năm ngày mùng một tết ông cư xử như sau:<br />” Tôi chỉ cần đi chúc tết các bạn hạng nhất, còn từ hạng nhì trở đi, không tết năm nào tôi xử lại sòng phẳng” .<br />Chép đoạn văn này ra đây, không phải để... khuyên bạn đọc làm theo, mà là để bạn đọc tham khảo và tìm ra cách đi chúc tết tốt nhất và phù hợp nhất . Riêng bản thân người viết bài này thì xin nói thực là đã thử vận dụng , và trong hoàn cảnh hiện nay thấy có vẻ như thế là thực tế và do đó cũng là chân thành hơn cả<br /> </span>thuykuehttp://www.blogger.com/profile/11377510706382381616noreply@blogger.comtag:blogger.com,1999:blog-2791392219377915741.post-4116584575975981932008-10-31T23:57:00.000-07:002008-11-07T02:07:39.943-08:00Nếp sống nếp nghĩầm ỹ chuyện nhỏ và<br />buông trôi chuyện lớn<br /><br />Vụ bàn tán chung quanh cuốn sách giáo khoa lớp một xôn xao một thời rồi cuối cùng cũng đã dịu lại . Thời gian trôi đi, bây giờ nhìn lại chúng ta thấy gì ? Một số chỗ yếu của cuốn sách này như cách biên soạn không khoa học , không đề rõ tác giả những câu thơ trích dẫn , hoặc khái quát hơn , thiếu vắng chất lượng văn học , thật ra là khuyết điểm của nhiều tập sách giáo khoa khác . Cả cái chuyện dạy chữ e trước chữ a cũng vậy . Cách giải thích của Bộ giáo dục khá đơn giản và thuyết phục : dạy chữ nào trước chữ nào sau là cốt làm sao học sinh dễ tiếp nhận . Còn trật tự abc của bảng chữ cái thì đâu có vì thế mà đảo lộn .<span id="fullpost"> <br />Sau một hai tháng nghĩ lại , hẳn nhiều người đã thấy chúng ta quá làm ồn chung quanh cái chuyện đơn giản đó .<br />Trong y học có khái niêm stress để chỉ những tác động của các biến cố quá tải đối với thể chất và tinh thần của con người . Chưa ai nghiên cứu đời sống tâm linh của người Việt trước những xáo động hàng ngày của đời sống hôm nay chỉ biết cái stress ấy có vẻ đang là có thật . Nay là lúc chúng ta rất dễ bực mình vì những chuyện đâu đâu . Thế nhưng thử nghĩ lại xem , có phải là bao chuyện quan trọng hơn nối tiếp bị buông trôi . Lại xin bắt đầu từ ngành giáo dục : theo con số mà báo chí tiết lộ , trên 80 % học sinh đã tốt nghiệp phổ thông thi vào đại học chỉ đạt kết quả dưới trung bình , đến nỗi ngành đại học ọp ẹp phải tiếp tục hạ chuẩn mới đủ sinh viên . Liệu có thể kết luận như thế nghĩa là con số học sinh giỏi học sinh xuất sắc hàng năm ở tất cả các cấp mà ngành giáo dục vẫn tự hào chỉ là con số giả tạo , bắt nguồn từ lối phóng tay cho điểm thật cao để lấy thành tích , còn trong thực tế chất lượng cả ngành là đáng báo động đỏ ,và nói cho nghiêm khắc tức là các thày các cô đã thường xuyên lừa dối xã hội mà không hay biết ? Học sinh chúng ta học theo chương trình và phương pháp cũ kỹ , cấp một mỗi lớp lèn chặt năm sáu chục em , cấp hai cấp ba học các môn vật lý hoá học toàn học chay ( nhiều trường ở ngay thành phố lớn cũng không có phòng thí nghiệm và ở một số trường mẫu nào đó nếu có thì cũng cổ lỗ , chắp vá ) , liệu có thể xếp ở mức nào so với học sinh cùng lớp ở các nước khác ? Và điều đáng nói hơn tại sao nhiều người vẫn coi chuyện ấy là bình thường , không ai nổi cơn thịnh nộ , không ai để công tìm hiểu đến cùng xem thực tế là như thế nào , nên yêu cầu ngành giáo dục giải trình ra sao về cách sử dụng đồng tiền mà ngân sách hàng năm dành cho giáo dục nói chung cũng như cách cho điểm cùng là cách dạy cách học hiện nay . Chuyện không có gì mà làm ầm ĩ trong khi chuyện quan trọng lại bị bỏ qua , phải chăng đó chính là bóng dáng của stress , một bệnh thường thấy ở các xã hội hiện đại ? </span>thuykuehttp://www.blogger.com/profile/11377510706382381616noreply@blogger.com