GỠ RA CHO THOÁT CÒN GÌ LÀ THÂN

Mất đất
Chỉ cần đứng ở các đầu ô, theo dõi hoạt động trên con đường nối Hà Nội với các tỉnh, người ta cũng sớm nhận ra thực chất các mối quan hệ giữa đô thị với các vùng nông thôn chung quanh. Đổ lên Hà Nội, ngoài gạo nước chỉ thấy mấy xe Minsk chở những bu gà và đôi khi là mấy con lợn đã mổ, những xe thồ chở rau, gần đây có thêm hàng đoàn xe đang chở cây cảnh. Xuôi đi các tỉnh thì trăm thứ bà rằn, không kể vải vóc, đồ điện, thuốc tây... gần đây đến cả đồ chơi trẻ con cũng đều là hàng từ Hà Nội. Ngày xưa có ai đi mua diều để thả bao giờ? Bố khéo tay thì làm cho con cái diều. Thô sơ, mộc mạc, nhưng mà đúng "cây nhà lá vườn". Ngày nay diều từ Hà Nội đưa về là diều nhựa, xanh xanh đỏ đỏ, có người bảo là nhập lậu từ Trung Quốc.
Kiểu quan hệ hai chiều như thế, kể ra, cũng là một bước phát triển. Nông thôn ta đang được hưởng nhiều thành tựu của công nghiệp.
Chỉ phiền một nỗi, có phải như thế, tức là nông thôn ta lao động đã thừa, giờ đây càng thừa thêm? Những ngày nông nhàn, giờ đây, những người khéo tay không biết làm gì. Thị trường của họ bị thu hẹp. Họ đang mất đất ngay trên quê hương mình.
Tôi không ngớ ngẩn đến mức đề nghị bịt đường, không cho hàng hóa thành thị về nông thôn. Tôi chỉ ước ao thực hiện cái điều nhiều người đã biết, tức là làm sao nông thôn được tổ chức lại, từng vùng có mặt hàng riêng, đủ sức cạnh tranh với các mặt hàng vẫn bán trên đô thị (nếu không tốt hơn, đẹp hơn, thì cũng rẻ hơn, vừa túi tiền hơn). Nó là chuyện giải quyết lao động thừa. Nó lại cũng là một cách để giữ gìn một số làng nghề truyền thống, và nhìn rộng ra, là giữ gìn cái bản sắc riêng của dân mình.
Có điều, việc này không phải từng cá nhân có thể lo nổi.
Thất nghiệp sinh làm bậy
Nghe tới mấy chữ sau lũy tre, không ai không hiểu đây là để chỉ nông thôn Việt Nam. Nhưng có lẽ phải nói thêm đó là cái nông thôn xưa từng làng từng xóm khép kín trong một cộng đồng chật hẹp. Nông thôn bây giờ khác hẳn. Chẳng những một số nơi lũy tre không còn, mà cái chính là làng xóm đã mất đi hẳn tính cô lập, để hòa đồng với nhau, và xa hơn, hòa nhập với đô thị. Nghe nói ở ngoại vi Hà Nội (thường cách độ 100 cây số trở lại) nay có nhiều làng có ô tô hàng ngày chở người lên thủ đô buôn bán, chiều lại đón về.
Cái hay học được nhiều. Nhưng cái dở cũng theo đó mà thâm nhập.
Nay là lúc nạn hút xách, đĩ điếm, rồi cả nạn đề đóm, nạn côn đồ đầu gấu... không phải là đặc sản riêng của thành thị mà cũng có thể sâu cây bén rễ ở nông thôn, như một bệnh dịch, không dễ gì ngăn chặn.
Thông thường, người ta đổ lỗi cho sự giao lưu tiếp xúc đang được mở rộng. Nhiều cụ già chép miệng "Giá cứ như ngày xưa làng nào thuần túy làng ấy, thì đâu đến nỗi".
Nhưng ngày xưa không thể trở lại! Câu chuyện từng làng khép kín đã thuộc về dĩ vãng.
Ở đây, tôi muốn đề nghị một cách nghĩ khác. Chẳng hạn chúng ta hãy thử tìm ra mối quan hệ giữa tệ nạn xã hội và phong trào làm ăn sản xuất của một địa phương. Hình như tình hình là như thế này:
- Nơi làm ăn khó khăn, nghề ngỗng chẳng có, lên Hà Nội chẳng qua gồng thuê, gánh mướn, thì các tệ nạn phát triển mạnh.
- Còn những nơi con người có nghề nghiệp chắc chắn, làm ra mặt hàng cung cấp cho thành phố, thì tuy cũng có chơi bời, nhưng người ta thường vượt lên, để tồn tại.
Tục ngữ xưa có câu: Giàu tham việc thất nghiệp tham ăn.
Nay có lẽ nên đổi đi đôi chút: Giàu tham việc, thất nghiệp tham làm bậy.
Nói cách khác, cuộc vận động chống các tệ nạn xã hội ở nông thôn tuy có phụ thuộc vào nền nếp truyền thống cũ, nhưng có lẽ cái mà nó phụ thuộc nhiều hơn cả là trình độ tổ chức sản xuất của từng làng xóm. Cây khỏe thì tự nó đã có thể chống được sâu bệnh.
Bao giờ cho đến ngày xưa
Một người bạn tôi ở Hải Hậu, Nam Định lên Hà Nội chơi, kể rằng ở quê anh vẫn còn tục lệ chỉ đàn ông mới được khiêng đòn đám ma. Vì vậy đang xảy ra tình trạng là ở một số làng, người chết không tìm được người khiêng. Nông thôn, trong cảnh thời tiết chất chưởng, làm ra hạt thóc chật vật khó khăn, cái nông thôn ấy, một số nơi, đang rỗng. Người nháo đi các nơi. Đi không chắc đã kiếm được cái ăn. Nhưng ở quê, biết làm gì hơn?
Những người ấy đi đâu?
Tôi nhớ những trai tráng ngồi quẩn bên nhau ở một số góc phố Hà Nội, chờ người đến thuê. Tôi nhớ những người bán hàng rong, kẻ này đẩy một ôm chiếu trên chiếc xe đạp "không phanh không gác-đờ-bu", kẻ kia mặt mũi đỏ gay, lút đi giữa đống đồ nhựa. Và những em bé đánh giày len lỏi ở các quán ăn, quán giải khát, đội quân ấy đang ngày một đông thêm.
Không phải là các nhà nghiên cứu về xã hội không biết. Từ các tài liệu thu thập được đâu đó, rồi so sánh, đối chiếu, họ khái quát: "đây là cả một xu thế xuất hiện ở các nước đang phát triển", "chẳng qua đây chỉ là tình thế tạm thời".
Người bỏ quê đi chỉ nghĩ: túng thì phải tính.
Lại nhớ lâu nay vẫn nghe nói ở nhiều nước, dân thành phố mắc phải một chứng bệnh oái oăm là bệnh thương nhớ đồng quê. Tức là họ ngán các nhà chọc trời. Họ thèm về sống với hương đồng cỏ nội (chỉ về nông thôn để ở thôi còn vẫn làm việc ở thành phố; phương tiện giao thông thuận tiện, chỉ ù một cái là tới).
Phải chăng dân ta có thuốc tiêm phòng, nên thứ bệnh sang trọng ấy không lan truyền nổi?
Nghĩ cho vui thôi! Tôi tin không người nông dân nào muốn bỏ quê nhà ra đi. Chính nhiều người thành thị hiện nay cũng đã bắt đầu cảm thấy cuộc sống nơi đây là quá nặng nề (môi trường ô nhiễm không cách gì sửa chữa). Và ước ao có ngày được tận hưởng cái không khí thanh bình yên ả sau lũy tre xanh. Chỉ có điều, thực tế trước mắt, thì hãy cùng phải chấp nhận. Sẽ có một ngày nông thôn là của tất cả chúng ta, nhưng cái ngày ấy, còn xa lăng lắc.
SỐ TRUY CẬP đang online